Bài giảng Bài 3: Lý Luận Về Pháp Luật

Nguồn gốc và đặc điểm của pháp luật.

• Bản chất của pháp luật.

• Kiểu pháp luật.

• Hình thức pháp luật.

pdf18 trang | Chia sẻ: hongmo88 | Lượt xem: 1515 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài giảng Bài 3: Lý Luận Về Pháp Luật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút TẢI VỀ ở trên
n các hành vi, mức độ phạm tội như tội giết trẻ sơ sinh; tội 
hiếp dâm trẻ vị thành niên; tội không giáo dục và quản lý con cái của các bậc cha mẹ để 
v1.0
 Bài 3: Lý luận về pháp luật
38 
chúng phạm tội; tội dụ dỗ trẻ em v.v 
Trong mối quan hệ giữa ông bà, cha mẹ với con cháu, luật tục Êđê nêu rõ : Ông bà, cha mẹ 
phải nuôi dưỡng, giáo dục con cháu chu đáo. Vì trẻ em như “con voi chưa biết đường nào 
để đi; bông hoa chưa biết nhìn; mùi thơm chưa biết ngửi; bông đỏ, vàng chưa nhận ra nên 
cha mẹ phải bảo ban chúng”. Người M'nông có vô số câu khuyên răn con người về trách 
nhiệm dạy dỗ, nuôi nấng những búp non trên ngàn: “Nuôi con lớn khôn/nuôi cháu hiền 
lành/đầu con không được có chấy/tay cháu không được dính cứt mũi/con cháu không được 
mặc khố rách/con khóc phải cho bú ngay/em khóc phải cưới chồng ngay...”. Ngoài việc 
chăm sóc con cái chu đáo, người M'nông đề cập đến việc dạy chúng thành người giỏi 
giang: “Con trai lớn lên phải học đan gùi/con trai lớn lên phải học làm ná/con trai lớn lên 
phải học luật tục. Con gái lớn lên phải học dệt vải/con gái lớn lên phải tập kéo chỉ/con gái 
lớn lên phải học nhuộm chỉ vải”. 
Luật tục các dân tộc thiểu số miền núi cũng đặc biệt quan tâm đến các “tội phạm 
hình sự” liên quan đến việc bảo vệ trẻ em. Chẳng những các “quan tòa dân gian” có 
những lý lẽ thuyết phục trong việc phân xử, luận tội mà còn nêu ra các hình phạt 
phù hợp với mức độ phạm tội của các bị cáo. Kẻ nào đầu độc, giết chết trẻ em, dù 
là con ruột của mình đều phải bị tuyên phạt với mức án cao nhất là phạt đền bằng 
voi: “Chết trẻ thơ đền voi mẹ; chết người già đền voi đực”. Vì rằng, theo truyền 
thống dân tộc, chỉ có con voi mới đạt thang giá trị thay thế mạng người. Xin dẫn ra 
đây lời luận tội về trường hợp vi phạm đến tính mạng trẻ em: “Hắn (kẻ phạm tội) 
là người độc ác. Biết đâu đứa bé lớn lên, nếu là con gái lại không thể trở thành bà 
phù thủy chữa bệnh, nếu là con trai lại không thể trở thành một tay khiên tài giỏi, 
có thể chiến thắng kẻ thù, bắt được tù binh, thu được vòng đồng, bát đĩa, trở thành 
một tù trưởng giàu có”. Luật tục còn dành những hình phạt thích đáng để xử tội 
hiếp dâm trẻ vị thành niên: “Hắn đã ép đứa bé gái như ép ngựa phải nhận cương, ép 
trâu phải nhận thừng. Hắn vồ như con cọp, xáp lại như con thú, hãm hại đứa bé, 
hành động như con chó con lợn mà không biết xấu hổ... Hắn là kẻ có tội, có việc 
nghiêm trọng phải đưa hắn ra xét xử”. Ngoài những trọng tội, luật tục còn nêu 
những tội khác vi phạm đến quyền lợi vật chất của trẻ em như dụ dỗ chúng để đoạt 
của cải... 
Trong bộ luật cổ của các dân tộc thiểu số vùng Trường Sơn - Tây Nguyên, từ lâu đã 
đề cập đến việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em, một thế hệ măng non tương lai của dân 
tộc. Nhiều quy định, luật lệ cổ truyền của đồng bào cho đến nay vẫn phù hợp và 
thiết thực, góp phần vào việc tuyên truyền trong cộng đồng về trách nhiệm chăm 
sóc, nuôi dưỡng và bảo vệ trẻ em. 
Theo Tấn Vịnh, bài đăng trên báo Quang Nam điện tử 
d=133 
3.4.3. Tiền lệ pháp 
Tiền lệ pháp là hình thức Nhà nước thừa nhận các quyết định của cơ quan hành chính 
Nhà nước hoặc cơ quan xét xử khi giải quyết những vụ việc cụ thể để áp dụng đối với 
các trường hợp tương tự. 
v1.0
 Bài 3: Lý luận về pháp luật
39 
Hình thức tiền lệ pháp còn được gọi là pháp luật án 
lệ, tồn tại chủ yếu ở các quốc gia theo hệ thống luật 
chung Anh – Mỹ (còn gọi là hệ thống thông luật). 
Theo hình thức này, nguồn của pháp luật là các bản 
án đã được tuyên hoặc các quyết định của cơ quan 
Nhà nước đã được ban hành. Việc áp dụng án lệ có 
những nguyên tắc rất chặt chẽ và không phải mọi 
bản án đã tuyên đều trở thành pháp luật ràng buộc 
sau đó. Thông thường, chỉ những bản án do tòa án 
cấp trên tuyên mới có hiệu lực ràng buộc tòa án cấp dưới và khi đó nó trở thành án lệ 
bắt buộc (pháp luật). Đối với tòa án cấp trên, bản án của tòa án cấp dưới chỉ có tính 
chất tham khảo và bản án đó được gọi là án lệ tham khảo (không phải là pháp luật). 
Khi thừa nhận nguồn của pháp luật là các án lệ có nghĩa là Nhà nước thừa nhận tòa án 
(thông qua hoạt động của thẩm phán) vừa là cơ quan xét xử vừa là cơ quan ban hành 
pháp luật. Hình thức này có ưu điểm là tạo ra sự linh hoạt trong hoạt động xét xử của 
tòa án và có thể giúp cho tòa án xét xử “vừa hợp tình vừa hợp lý”. Tuy nhiên, tiền lệ 
pháp có thể tạo ra sự tùy tiện trong ban hành pháp luật và không phân định rõ chức 
năng của các cơ quan Nhà nước. Hơn nữa, tiền lệ pháp sẽ làm cho hệ thống pháp luật 
trở nên phức tạp và người dân (những người không có trình độ pháp luật nói chung) sẽ 
khó tiếp cận và thực hiện đầy đủ được các quy định của pháp luật. 
3.4.4. Văn bản quy phạm pháp luật 
Văn bản quy phạm pháp luật là hình thức nhà nước ghi nhận các quy phạm pháp luật 
trong các văn bản được ban hành theo trình tự, thủ tục nhất định bởi các chủ thể có 
thẩm quyền. 
Hình thức văn bản quy phạm pháp luật được sử dụng trong tất cả các kiểu nhà nước, 
tuy nhiên trong Nhà nước chủ nô và phong kiến, văn bản quy phạm pháp luật còn 
chưa hoàn chỉnh bởi nội dung khá đơn giản và kỹ thuật lập pháp còn hạn chế. Pháp 
luật tư sản đã phát triển hình thức văn bản quy phạm pháp luật lên trình độ cao với kỹ 
thuật lập pháp tiên tiến và nội dung điều chỉnh 
tương đối đa dạng, phức tạp đặc biệt ở những nước 
theo hệ thống luật thành văn. Nhà nước xã hội chủ 
nghĩa sử dụng hình thức văn bản quy phạm pháp 
luật với tư cách là nguồn chủ yếu điều chỉnh các 
quan hệ xã hội. Điều này là do hình thức văn bản 
quy phạm pháp luật có ưu điểm nổi bật là được ban 
hành theo trình tự, thủ tục chặt chẽ nội dung rõ 
ràng và tạo ra sự thống nhất trong thực hiện pháp 
luật. Tuy nhiên, hình thức văn bản quy phạm pháp 
luật có hạn chế là pháp luật có thể không theo kịp sự thay đổi của xã hội do các quan 
hệ xã hội không ngừng vận động và phát triển trong khi pháp luật thành văn có tính ổn 
định tương đối của nó. Hơn nữa, không phải lúc nào nhà làm luật cũng có thể dự liệu 
được đa dạng, phức tạp đặc biệt ở những nước theo hệ thống luật thành văn. Nhà nước xã 
hội chủ nghĩa sử dụng hình thức văn bản quy phạm pháp luật với tư cách là nguồn chủ 
yếu để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Điều này là do hình thức văn bản quy phạm 
 Hình minh họa 
Hình minh họa 
v1.0
 Bài 3: Lý luận về pháp luật
40 
pháp luật có ưu điểm nổi bật là được ban hành theo trình tự, thủ tục chặt chẽ nội dung 
rõ ràng và tạo ra sự thống nhất trong thực hiện pháp luật. Tuy nhiên, hình thức văn bản 
quy phạm pháp luật có hạn chế là pháp luật có thể không theo kịp sự thay đổi của xã 
hội do các quan hệ xã hội không ngừng vận động và phát triển trong khi pháp luật 
thành văn có tính ổn định tương đối hết các tình huống xảy ra trong thực tế bởi vậy có 
khả năng là một số quan hệ xã hội phát sinh mà không được pháp luật điều chỉnh. 
Chính vì lý do này mà bên cạnh hình thức văn bản quy phạm pháp luật ở chừng mực 
nhất định và không phải là chủ yếu thì nhà nước xã hội chủ nghĩa vẫn thừa nhận các 
hình thức pháp luật khác như tập quán pháp và tiền lệ pháp. Điều 3 Bộ luật Dân sự 
năm 2005 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định “Trong trường 
hợp pháp luật không quy định và các bên không có thỏa thuận thì có thể áp dụng tập 
quán, nếu không có tập quán thì áp dụng quy định tương tự của pháp luật. Tập quán 
và quy định tương tự của pháp luật không được trái với những nguyên tắc quy định 
trong Bộ luật này”, hay Điều 13 Luật Thương mại năm 2005 quy định: “Trường hợp 
pháp luật không có quy định, các bên không có thoả thuận và không có thói quen đã 
được thiết lập giữa các bên thì áp dụng tập quán thương mại nhưng không được trái 
với những nguyên tắc quy định trong Luật này và trong Bộ luật Dân sự”. Như vậy, 
trong các trường hợp này, pháp luật Việt Nam cho phép sử dụng tập quán với tư cách 
là nguồn của pháp luật. Bên cạnh tập quán pháp, đôi khi hình thức tiền lệ pháp cũng 
được áp dụng ở nước ta, chẳng hạn như việc tổng kết xét xử của Tòa án tối cao đóng 
vai trò như các văn bản hướng dẫn tòa án cấp dưới xét xử những vụ việc có tình tiết 
tương tự. Điều đó cho thấy tuy không phổ biến nhưng trong những trường hợp nhất 
định Nhà nước xã hội chủ nghĩa vẫn thừa nhận hình thức tập quán pháp và tiền lệ 
pháp bên cạnh hình thức chủ yếu là văn bản quy phạm pháp luật. 
v1.0
 Bài 3: Lý luận về pháp luật
41 
TÓM LƯỢC CUỐI BÀI 
Bài này nghiên cứu những vấn đề lý luận chung nhất về pháp luật, bao gồm nguồn gốc, đặc 
điểm, bản chất, các kiểu và các hình thức pháp luật. 
Pháp luật ra đời cùng với sự ra đời của Nhà nước khi có các điều kiện về kinh tế và xã hội, cụ thể là : 
• Về mặt kinh tế : trong xã hội xuất hiện chế độ tư hữu 
• Về xã hội : có sự phân chia giai cấp, hình thức nên các giai cấp bóc lột và bị bóc lột. 
Như vậy, pháp luật là một hiện tượng lịch sử mang bản chất giai cấp và bản chất xã hội. Có bốn 
kiểu pháp luật là pháp luật chủ nô (pháp luật chiếm hữu nô lệ, pháp luật phong kiến, pháp luật tư 
sản và pháp luật xã hội chủ nghĩa). 
Bài này cũng đồng thời chỉ ra nguồn chứa đựng các quy phạm pháp luật – còn gọi là hình thức 
pháp luật. Có ba hình thức pháp luật là tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản quy phạm pháp luật. 
v1.0
 Bài 3: Lý luận về pháp luật
42 
CÂU HỎI THƯỜNG GẶP 
1. Nhà nước và pháp luật có xuất hiện cùng lúc không? 
2. Phân biệt nguồn của pháp luật và nguồn gốc của pháp luật? 
3. Nhà nước phong kiến đã tồn tại ở Việt Nam hàng trăn năm. Có những văn bản quy phạm pháp 
luật nào của các nhà nước phong kiến còn tồn tại cho đến nay? 
. 
CÂU HỎI CUỐI BÀI 
1. Phân tích bản chất giai cấp của pháp luật? 
2. Phân tích giá trị xã hội của pháp luật? 
3. Khái niệm kiểu pháp luật ? Tại sao nói pháp luật xã hội chủ nghĩa là kiểu pháp luật tiến bộ 
nhất trong lịch sử? 
4. Pháp luật chủ nô và pháp luật phong kiến có đặc điểm gì? Tại sao lại có những đặc điểm như vậy? 
5. Phân tích giá trị xã hội của pháp luật tư sản? 
6. Phân tích khái niệm hình thức pháp luật? 
v1.0

File đính kèm:

  • pdfLý luận về pháp luật[1].pdf