Bài giảng Ngữ văn Lớp 11 - Đọc văn: Chí Phèo (Nam Cao) - Phần 1: Tác giả Nam Cao

Tiểu sử

- Quê hương : làng Đại Hoàng (nay là xã Hoà Hậu, huyện Lý Nhân) tỉnh Hà Nam.

 + Làng quê nghèo, dân đông, ruộng ít, lại bị bọn cường hào bóc lột trắng trợn, nặng nề.

 + Xuất hiện trong nhiều sáng tác của Nam Cao với tên gọi : làng Vũ Đại.

- Cuộc đời :

 + Dạy học ở một trường tư thục, sống cuộc đời “giáo khổ trường tư”.

 + Tận tụy phục vụ cách mạng và kháng chiến cho tới lúc hy sinh (1951).

 

ppt8 trang | Chia sẻ: hienduc166 | Lượt xem: 619 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài giảng Ngữ văn Lớp 11 - Đọc văn: Chí Phèo (Nam Cao) - Phần 1: Tác giả Nam Cao, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút TẢI VỀ ở trên
Chí Phèo - Nam Cao -Phần I Tác giả Nam CaoTiểu sử1917 - 1951Quê hương : làng Đại Hoàng (nay là xã Hoà Hậu, huyện Lý Nhân) tỉnh Hà Nam. + Làng quê nghèo, dân đông, ruộng ít, lại bị bọn cường hào bóc lột trắng trợn, nặng nề. + Xuất hiện trong nhiều sáng tác của Nam Cao với tên gọi : làng Vũ Đại. Cuộc đời : + Dạy học ở một trường tư thục, sống cuộc đời “giáo khổ trường tư”. + Tận tụy phục vụ cách mạng và kháng chiến cho tới lúc hy sinh (1951).- Tên thật : Trần Hữu Tri.- Gia đình : nông dân. “Nam Cao là con một gia đình trung nông ở Hà Nam giữa đồng bằng Bắc Bộ. Trong các truyện ngắn và tiểu thuyết của anh luôn hiện lên cái làng lam lũ ở ven sông, quanh năm gần như như không có tiếng hát, nhà nọ cách xa nhà kia, rải rác trong những khu vườn “hẻo lánh tựa bãi tha ma... Bắt đầu biết suy nghĩ, Nam Cao hiểu một cách sâu xa sự hà hiếp của bọn cường hào. Anh đã thấy những ông bá Kiến sai trói một lúc mười bảy người và đánh một người lòi một mắt, những cảnh thuế má bóp hầu bóp cổ mỗi năm lại diễn ra và những người dân cùng khổ càng ngày càng khổ mãi. Đang đi học, bị bệnh phù và đau tim, Nam Cao bỏ học vào miền Nam Mấy năm sau trở về quê, gia đình anh đã khánh kiệt, sống vất vả túng đói. Làng anh “vẫn như xưa, khổ hơn xưa. Vải tây rẻ như bèo, nghề dệt cơ sở của làng chết hẳn rồi... Nam Cao ra Hà Nội làm nghề dạy học tư và cứ luôn luôn, cuộc đời túng thiếu, tù hãm, quấn chặt lấy anh, không buông tha lúc nào... (Nguyễn Đình Thi, trích Nam Cao - Về tác gia và tác phẩm, Bích Thu tuyển chọn, tr.44, NXB Giáo dục, H.1999) Là người trí thức “trung thực vô ngần”, luôn nghiêm khắc đấu tranh với chính mình để thoát khỏi lối sống tầm thường nhỏ nhen. Con người Nam Cao Có bề ngoài lạnh lùng, ít nói nhưng có đời sống nội tâm phong phú, sôi sục. Là người có tấm lòng đôn hậu, chan chứa tình thương, gắn bó sâu nặng với quê hương và những người nông dân nghèo khổ Những người bạn mới gặp Nam Cao thường nói : anh ta lạnh lùng quá. Kéo mép lên mới nẻ được một nụ cười khó nhọc. Chính Nam Cao cũng đã tả mặt mình trong một truyện ngắn Cái mặt không chơi được. Và tự giễu một cách mỉa mai là chẳng may trời chỉ phú cho mình cái mặt không chơi được ấy thì mình phải chịu. Thật ra thì, mặt anh ta lạnh, nhưng lòng anh ta rất sôi sổi (Tô Hoài - Người và tác phẩm Nam Cao)  Những người sống sót ở trận giặc phục kích chập tối ngày 30 tháng 11 năm 1951 trên cánh đồng chiêm ở Hoàng Đan (Ninh Bình) kể lại : Nam Cao đi trong chiếc thuyền đầu tiên của đoàn thuyền vượt khu trắng đêm ấy vào địch hậu Ninh Bình. Tôi nghĩlại và nghĩ về tất cả những cố gắng, những trường hợp đương đầu với tình thế sống mái, bao giờ Nam Cao cũngcó được một bản lĩnh chống với thóixấu, bạc nhược của mình (Tô Hoài)Quan điểm nghệ thuậtNghệ thuật vị nhân sinh. Văn học phải gắn bó với đời sống của nhân dân lao động. “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ kiếp lầm than” 	 	 (Trăng sáng)Một tác phẩm có giá trị phải chứa đựng nội dung nhân đạo cao cả.Nghề văn phải là nghề sáng tạo. Nhà văn phải có lương tâm nghề nghiệp.“ Nó ca tụng lòng thương,tình bác ái, sự công bình Nó làm cho người gần người hơn” (Đời thừa)- “Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”.- “Sự cầu thả trong văn chương thì thật là đê tiện” (Đời thừa) Đề tài chínhNgười trí thức nghèo Người nông dân nghèo Giăng sáng, Đời thừa, Sống mòn• Nội dung chính : Nhà văn đã miêu tả sâu sắc tấn bi kịch tinh thần của những người trí thức nghèo trong xã hội cũ. • Giá trị : Phê phán xã hội phi nhân đạo đã tàn phá tâm hồn con người đồng thời thể hiện niềm khao khát mộtcuộc sống có ích, thực sự có ý nghĩa. Chí Phèo, Lão Hạc,Một bữa no• Nội dung chính : Tập trung khắc họa tình cảnh và số phận những người nông dân nghèo bị đẩy vào đường cùng, bị chà đạp tàn nhẫn, đặc biệt là bị tha hoá, lưu manh hoá.• Giá trị : Kết án xã hội tàn bạo đã huỷ diệt nhân tính của những người nông dân hiền lành đồng thời khẳng định nhân phẩm và bản chất lương thiện của họ. “Thứ vẫn không thể nào chịu đượcrằng sống chỉ là làm thế nào chomình và vợ con có cơm ăn, áo mặcthôi. Sống là để làm một cái gì caođẹp hơn nhiều. Mỗi người sống phảilàm thế nào cho phát triển đến tậnđộ những khả năng của loài chứa đựng ở trong mình. Phải gom sức lực của mình vào công việc tiến bộchung. Mỗi người chết đi, phải đểlại một chút gì cho nhân loại” (Sống mòn)  Phong cách nghệ thuật Nam Cao Phong cách nghệ thuật là cá tính sáng tạo của nhà văn thể hiện trong tác phẩm qua :1- Cách lựa chọn và xử lý đề tài.2- Quan niệm nghệ thuật về con người.3- Những biện pháp nghệ thuật ưa thíchvà quen dùng.4- Giọng điệu riêng. 1- Nam Cao thường viết về cái nhỏ nhặt, xoàng xĩnh, tầm thường trong đời sống hàng ngày, từ đó đặt ra những vấn đề có ý nghĩa xã hội to lớn, những triết lý sâu sắc về con người, cuộc sống và nghệ thuật. 2. Nam Cao luôn có hứng thú khám phá “con người trong con người”, có biệt tài diễn tả, phân tích tâm lý nhân vật.3- Nam Cao thường sử dụng thủ pháp độc thoại và độc thoại nội tâm.4- Giọng điệu buồn thương chua chát, lạnh lùng mà đầy thương cảm, đằm thắm yêu thương. - “Chao ôi ! Nếu người ta không phải ăn thì đời sẽ giản dị biết bao”- “Những lúc đói, trí người ta thật sáng suốt” (Một bữa no)- “Thì ra những cô gái quê rất đẹp, rất hiềnlà những kẻ không mấy ngày được thỏa cơm. Đối với họ, cái ăn có lẽ còn cần hơn cả tình yêu” (Xu-vơ-nia)Trong “Điếu văn”, Nam Cao bộc bạch : “Người ta thường trách tôi vô tình cảm. Nhầm. Tôi chỉ gớm ghét sự giả trá mà thôi. Có điều tôi giả trá theo cách khác. Tôi cố ý đóng cũi sắt tình cảm của tôi” “Sống tức là cảm giác và tư tưởng. Sống cũng là hành động nữa nhưng hành động chỉ là phần phụ : có cảm giác, có tư tưởng mới sinh ra hành động”. (Sống mòn) Là một nhân cách đáng trân trọng. Người nghệ sĩ có phong cách nghệ thuật độc đáo Nhà hiện thực xuất sắc, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn 

File đính kèm:

  • pptnam_cao.ppt