Bài giảng Ngữ văn Lớp 11 - Đọc văn: Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử)

I/ Tác gia: HÀN MẶC TỬ

Cuộc đời:

 a) Tiểu sử:

 - Tên thật Nguyễn Trọng Trí, sinh năm 1912.

 - Quê ở huyện Phong Lộc, tỉnh Đồng Hới ( Quảng Bình ngày nay).

 - Xuất thân trong một gia đình công giáo nghèo

 - Sau khi học trung học ở Huế, ông làm công chức ở Sở Đạc Điền - Bình Định, rồi vào Sài Gòn làm báo.

 - Năm 1936, mắc bệnh phong, ông về hẳn Quy Nhơn. Ông mất năm 1940 tại trại phong Quy Hòa, mới 28 tuổi.

 

ppt19 trang | Chia sẻ: hienduc166 | Lượt xem: 367 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài giảng Ngữ văn Lớp 11 - Đọc văn: Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút TẢI VỀ ở trên
Ñaây thoân Vyõ DaïHaøn Maëc TöûA. Tìm hiểu chung:I/ Tác gia: HÀN MẶC TỬCuộc đời: 	a) Tiểu sử:	- Tên thật Nguyễn Trọng Trí, sinh năm 1912.	- Quê ở huyện Phong Lộc, tỉnh Đồng Hới ( Quảng Bình ngày nay).	- Xuất thân trong một gia đình công giáo nghèo 	- Sau khi học trung học ở Huế, ông làm công chức ở Sở Đạc Điền - Bình Định, rồi vào Sài Gòn làm báo. 	- Năm 1936, mắc bệnh phong, ông về hẳn Quy Nhơn. Ông mất năm 1940 tại trại phong Quy Hòa, mới 28 tuổi.I/ Tác gia: HÀN MẶC TỬ	b) Con người:	- Nổi tiếng là thần đồng thơ ở Quy Nhơn lúc 14, 15t.	- Bút danh: Minh Duệ, Phong Trần, Lệ Thanh, Hàn Mặc Tử.	- Bắt đầu bằng thơ Đường luật, sau chuyển sang thơ mới – khuynh hướng lãng mạng.	- Hiện tượng thơ ca kì lạ bậc nhất của phong trào Thơ mới.	-2) Sự nghiệp văn học:a/ Đặc điểm và phong cách riêng trong sáng tác:Nỗi đau đời : nỗi tủi cực đắng cay của người cầm bút “ Bước đời thi sĩ nhiều cay nghiệt”, oan trái bất công vì bệnh tật, dang dở trong tình duyên.Thơ Hàn Mặc Tử bình dị mà khắc họa, day dứt của một kẻ lạc loài, đau đớn và máu thịt.Có sự đan xen, ràng rịt của những gì thân thuộc, thanh khiết, thiêng liêng nhất, cả những gì điên loạn, ghê rợn, ma quái nhất. Có trăng, hoa, nhạc hương lẫn hồn, máu, yêu, maCái cốt lõi vẫn là lòng ham sống, ham sống đến si mê của một hồn thơ đau thương.b/ Các tác phẩm chính:- "Lệ Thanh Thi Tập" – tập thơ Đường luật có 3 bài Thức Khuya, Chùa Hoang, Gái Ở Chùa.1936: tập thơ Gái Quê.1937: tập Thơ Điên (gồm 3 tập Hương Thơm, Mật Đắng, Máu Cuồng Và Hồn Điên) mang chung một nhan đề: Đau Thương.Tập thơ Xuân Như Ý (1939), Thượng Thanh Khí (1940). “Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói loà rực rỡ của mình” (Chế Lan Viên) “Tôi đã sống mãnh liệt và đầy đủ. Sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng lệ, bằng hồn. Tôi đã phát triển hết cả cảm giác của tình yêu. Tôi đã vui, buồn, giận hờn đến gần đứt sự sống.” (Tựa Thơ Hàn Mặc Tử) “Tôi xin hứa hẹn với các người rằng mai sau, những cái tầm thường, mực thước kia sẽ tan đi và còn lại của cái thời kỳ này chút gì đáng kể thì đó là Hàn Mặc Tử ” (Chế Lan Viên) 	Trăng vàng trăng ngọc	Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng, Trăng Trăng! Ai mua trăng tôi bán trăng cho Không bán đoàn viên, ước hẹn hò... Bao giờ đậu trạng vinh qui đã Anh lại đây tôi thối chữ thơ. Không, Không, Không! Tôi chẳng bán hòn Trăng. Tôi giả đò chơi, anh tưởng rằng Tôi nói thiệt, là anh dại quá: Trăng Vàng Trăng Ngọc bán sao đang.  Những giọt lệ	Trời hỡi, bao giờ tôi chết đi? Bao giờ tôi hết được yêu vì, Bao giờ mặt nhật tan thành máu Và khối lòng tôi cứng tựa si? Họ đã xa rồi khôn níu lại, Lòng thương chưa đã, mến chưa bưa... Người đi, một nửa hồn tôi mất, Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ. Tôi vẫn còn đây hay ở đâu? Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu? Sao bông phượng nở trong màu huyết, Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu?	Mùa xuân chín	Trong làn nắng ửng: khói mơ tan, Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng. Sột soạt gió trêu tà áo biếc, Trên giàn thiên lý - Bóng xuân sang. Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời. Bao cô thôn nữ hát trên đồi. Ngày mai trong đám xuân xanh ấy, Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc chơi. Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi, Hổn hển như lời của nước mây, Thầm thì với ai ngồi dưới trúc Nghe ra ý vị và thơ ngây. Khách xa, gặp lúc mùa xuân chín, Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng: "Chị ấy, năm nay còn gánh thóc Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?..." II/ Tác phẩm: ĐÂY THÔN VĨ DẠHoàn cảnh ra đời:	- Đây thôn Vĩ Dạ, lúc đầu có tên là Ở đây thôn Vĩ Dạ, được sáng tác vào khoảng năm 1938, in lần đầu trong tập Thơ Điên (Thơ Điên về sau đổi tên thành Đau thương). 	- Được gợi cảm hứng từ 1 tấm thiệp của Hoàng Cúc gửi cho Hàn Mặc Tử để động viên, an ủi khi bà nghe tin nhà thơ bị bệnh hiểm nghèo. “Một kiệt tác của Hàn Mặc Tử và cũng là một trong những thi phẩm xuất sắc của thơ Việt Nam hiện đại”.2) Chủ đề:	Đây thôn Vĩ Dạ là bức tranh đẹp về một miền quê đất nước, là tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người, luôn khát khao cái đẹp tình yêu, hạnh phúc nhưng mang nặng một nỗi buồn đau vô vọng.3) Bố cục:Khổ 1: Cảnh đẹp thôn Vỹ.Khổ 2: Cảnh vừa thực vừa ảo hoà quyện, tâm trạng mong ngóng.- Khổ 3: Cảm xúc mơ tưởng, hoài nghi .4) Giá trị đặc sắc:a/ Giá trị nội dung:	- “Đây thôn Vĩ Dạ” là tiếng nói của một cái tôi bơ vơ, cô đơn luôn khao khát hướng về cuộc đời, là khát vọng của con người về sự đồng cảm, đồng điệu mà tình yêu và hạnh phúc lứa đôi là biểu hiện cao nhất.	b/ Giá trị nghệ thuật:	- Nghệ thuật hết sức độc đáo, tinh tế, bút pháp lãng mạn, tượng trưng với những hình ảnh thơ đặc sắc đầy ấn tượng.	- Sử dụng các câu hỏi tu từ, các đại từ phiếm chỉ, các chủ từ ẩn, có sự cường điệu, mờ hóa, sự phong phú và nhất quán của các hoạt động tâm lí như tưởng tượng, hồi ức, suy đoán, dự cảm, ảo giác	- Bức tranh xứ Huế nhuốm màu tâm trạng. 	B. Phân tích:1/ Vẻ đẹp của thôn Vỹ Dạ.2/ Tâm sự thi nhânKhổ 1: Cảnh đẹp thôn Vỹ.Khổ 2: Cảnh vừa thực vừa ảo hoà quyện, tâm trạng mong ngóng.Khổ 3: Cảm xúc mơ tưởng, hoài nghi .I/ Nội dung:II/ Nghệ thuật:Câu hỏi tu từ, đại từ phiếm chỉ:Ai biết tình ai. Vườn aiThuyền aiTâm sự kín đáo. Hình ảnh hư - thực đan xen:Khát vọng mong manh. Bến sông, sông trăng, sương khói mờ nhân ảnhCaûm ôn coâ vaø caùc baïn ñaõ quan taâm theo doõi. Chuùc caùc baïn hoïc toát !

File đính kèm:

  • pptday_thon_vy_da_va_han_mac_tu.ppt