Bài Giảng Phân Tích Tài Chính - Bài 1: Tổng Quan Về Phân Tích Tài Chính

Phân tích tài chính (financial analysis) là môn học được thiết kế dành riêng cho

Chương Trình Giảng Dạy Kinh Tế Fulbright và được giảng dạy vào học kỳ Thu

hàng năm. Môn học này được thiết kế trên cơ sở kết hợp các môn học: Tài chính

công ty (Corporate Finance), Quản trị tài chính (FinancialManagement), Thị

trường tài chính (Financial Markets), và Tài chính quốc tế (International Finance)

được giảng dạy ở các trường đại học ở các nước phát triển, trong đó chú trọng đến

khía cạnh phân tích và ra quyết định tàichính nhằm trang bị cho các nhà hoạch

định chính sách và giám đốc doanh nghiệp công cụ và kỹ năng phân tích trước

khi ra quyết định.

Tài chính có 3 lĩnh vực chủ yếu bao gồm: (1) thị trường và thể chế tài chính,

(2) đầu tư tài chính, và (3) quản trị tài chính. Các lĩnh vực này thường liên quan

như nhau đến những loại giao dịch tài chính nhưng theo giác độ khác nhau. Trong

phạm vi môn học này chúng ta chỉ tập trung xem xét những vấn đề liên quan đến

quản trị tài chính, thị trường tài chính và đầu tư tài chính.

pdf17 trang | Chia sẻ: hongmo88 | Lượt xem: 1205 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài Giảng Phân Tích Tài Chính - Bài 1: Tổng Quan Về Phân Tích Tài Chính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút TẢI VỀ ở trên
à thị trường vốn 
Thị trường tiền tệ (money market) là thị trường giao dịch các loại vốn ngắn hạn, 
không quá 1 năm, trong khi thị trường vốn (capital market) là thị trường giao 
dịch các loại vốn dài hạn trên 1 năm. Các chứng khoán có thời hạn không qua 1 
năm gọi là chứng khoán của thị trường tiền tệ, trong khi các chứng khoán có thời 
hạn trên 1 năm gọi là chứng khoán của thị trường vốn. Chứng khoán thị trường 
tiền tệ nói chung có tính thanh khoản cao hơn chứng khoán thị trường vốn, tuy 
nhiên, chứng khoán thị trường vốn lại tạo ra lợi nhuận hàng năm cho nhà đầu tư 
cao hơn chứng khoán thị trường tiền tệ. 
Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp 
Bất luận giao dịch trên thị trường tiền tệ hay thị trường vốn, chúng ta cũng cần 
phân biệt giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp (primary 
market) là thị trường phát hành và giao dịch các loại chứng khoán mới phát 
hành, trong khi thị trường thứ cấp (secondary market) giao dịch các loại chứng 
khoán đã phát hành. Giao dịch trên thị trường sơ cấp cung cấp nguồn vốn cho các 
nhà phát hành chứng khoán trong khi giao dịch trên thị trường thứ cấp cung cấp 
thanh khoản cho các nhà đầu tư. 
Thị trường có tổ chức và thị trường không có tổ chức (thị trường OTC) 
Thị trường có tổ chức (organized market) là thị trường giao dịch tập trung ở sở 
giao dịch trong khi thị trường không có tổ chức là thị trường giao dịch không tập 
trung, giao dịch ở ngoài sở giao dịch (over-the-counter – OTC). 
 15
6.2 Các tổ chức tài chính (Financial institutions) 
Bởi vì thị trường tài chính không hoàn hảo nên những người mua và người bán 
chứng khoán không có đầy đủ thông tin cần thiết cũng như không thể phân chia 
nhỏ chứng khoán theo qui mô phù hợp với nhu cầu của họ. Khi ấy họ cần các tổ 
chức tài chính trung gian giúp họ giải quyết những vấn đề do sự không hoàn hảo 
của thị trường gây ra. Các tổ chức tài chính này thu thập thông tin từ người mua 
và người bán để làm cho nhu cầu mua và bán gặp nhau. Nếu không có các tổ chức 
tài chính thì chi phí thông tin và giao dịch sẽ rất lớn khiến cho các giao dịch rất 
khó có thể xảy ra. Nói chung tổ chức tài chính trung gian có thể chia thành 2 loại: 
Tổ chức nhận ký thác và tổ chức không nhận ký thác. 
Tổ chức nhận ký thác (Deposistory institutions) 
Tổ chức nhận ký thác là loại hình chủ yếu của các tổ chức tài chính, nó nhận ký 
thác từ những đơn vị thặng dư vốn và cung cấp tín dụng cho những đơn vị thiếu 
hụt vốn hoặc đầu tư bằng cách mua chứng khoán. Tổ chức nhận ký thác bao gồm 
các loại hình sau đây: 
• Ngân hàng thương mại – là tổ chức mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên 
là nhận tiền gửi của công chúng dưới hình thức ký thác và sử dụng ký thác 
đó để cho vay và thực hiện các dịch vụ tài chính khác. 
• Tổ chức tiết kiệm – là một loại hình tổ chức nhận ký thác thường được tổ 
chức dưới hình thức hiệp hội tiết kiệm và cho vay hoặc ngân hàng tiết 
kiệm, nó hoạt động tương tự như là ngân hàng thương mại nhưng tập trung 
chủ yếu vào khách hàng cá nhân hơn là khách hàng công ty. 
• Hiệp hội tín dụng – Hiệp hội tín dụng khác với ngân hàng thương mại và 
tổ chức tiết kiệm ở chổ (1) chúng là tổ chức phi lợi nhuận, (2) hạn chế hoạt 
động trong phạm vi thành viên của hội, sử dụng hầu hết nguồn vốn huy 
động từ hội viên và cung cấp tín dụng lại cho các hội viên khác. 
Tổ chức không nhận ký thác (Nondeposistory institutions) 
Tổ chức không nhận ký thác cũng đóng vai trò quan trọng trong hệ thống tài 
chính. Chúng không huy động nguồn vốn bằng hình thức ký thác mà huy động 
vốn bằng các hình thức khác như phát hành tín phiếu, trái phiếu, hoặc cổ phiếu. 
Về loại hình, các tổ chức không nhận ký thác (đôi khi còn gọi là tổ chức tài chính 
phi ngân hàng) bao gồm: 
• Công ty tài chính – huy động vốn bằng cách phát hành chứng khoán và sử 
dụng vốn huy động được để cho vay. Hoạt động cho vay của công ty tài 
chính cũng giống như ngân hàng thương mại nhưng nó chủ yếu tập trung 
vào một phân khúc thị trường cụ thể nào đó. 
 16
• Quỹ đầu tư hổ tương – huy động vốn bằng cách bán cổ phần cho các nhà 
đầu tư và sử dụng vốn huy động được để đầu tư chứng khoán trên thị 
trường tài chính. 
• Công ty chứng khoán – cung cấp đa dạng các loại dịch vụ tài chính như môi 
giới, kinh doanh, tư vấn và bao tiêu chứng khoán. 
• Công ty bảo hiểm – huy động vốn bằng cách bán chứng nhận bảo hiểm cho 
công chúng và sử dụng nguồn vốn huy động được để đầu tư trên thị trường 
tài chính. 
• Quỹ hưu bổng – quỹ này hình thành từ tiền đóng góp của các công ty và đại 
diện chính phủ và được sử dụng để đầu tư trên thị trường tài chính. Vốn 
gốc và lãi của quỹ này dùng để chi trả cho người lao động dưới hình thức 
lương hưu. 
6.3 Các công cụ tài chính 
Có rất nhiều loại chứng khoán hay công cụ tài chính được giao dịch trên thị 
trường tài chính, bao gồm các công cụ trên thị trường vốn và các công cụ trên thị 
trường tiền tệ. Ba loại chứng khoán giao dịch phổ biến trên thị trường vốn bao 
gồm trái phiếu (bonds), chứng khoán cầm cố bất động sản (mortgages) và cổ phiếu 
(stocks). 
• Trái phiếu là chứng nhận nợ dài hạn do công ty hoặc chính phủ phát hành 
để huy động vốn tài trợ cho hoạt động của mình. 
• Chứng khoán cầm cố bất động sản là loại chứng nhận nợ dài hạn được tạo 
ra nhằm tài trợ cho việc mua bất động sản. 
• Cổ phiếu (còn gọi là chứng khoán vốn) là chứng nhận đầu tư và sở hữu một 
phần trong công ty cổ phần. 
Các công cụ tài chính trên thị trường tiền tệ là những loại tài sản tài chính có 
thời hạn không qua 1 năm, bao gồm tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, thương 
phiếu, thuận nhận của ngân hàng, quỹ liên bang, thoả thuận mua lại, và ký thác 
dollar ngoại biên. 
• Tín phiếu kho bạc (treasury bill) – chứng khoán có thời hạn không quá 1 
năm do Kho bạc phát hành để huy động vốn bù đắp thiếu hụt cho ngân 
sách. 
• Chứng chỉ tiền gửi (certificate of deposit) – chứng chỉ tiền gửi do các tổ 
chức nhận ký thác phát hành có nêu rõ số tiền gửi, thời hạn và lãi suất. 
• Thương phiếu (commercial paper) – chứng khoán ngắn hạn do các công ty 
rất uy tín phát hành để huy động vốn ngắn hạn. 
• Thuận nhận của ngân hàng (bank’s acceptance) – thoả thuận theo đó ngân 
hàng chấp nhận sẽ thanh toán số tiền ghi trên hối phiếu khi hối phiếu 
được xuất trình. 
 17
• Quỹ liên bang – Ký thác của các tổ chức nhận ký thác gửi tại Ngân Hàng 
Dự Trữ Liên Bang. 
• Thoả thuận mua lại (repurchase agreement – repo) – Thoả thuận theo đó 
ngân hàng (hoặc công ty) bán chứng khoán chính phủ mà họ sở hữu kèm 
theo cam kết sau này sẽ mua lại chứng khoán đó. 
• Ký thác dollar ngoại biên (eurodollar deposit) – Ký thác dollar tại các ngân 
hàng nằm ngoài lãnh thổ Hoa Kỳ. 
Ngoài các công tài chính của thị trường tiền tệ và thị trường vốn, thị trường tài 
chính còn giao dịch các công cụ tài chính hay chứng khoán phái sinh (derivatives). 
Chứng khoán phái sinh (derivative securities) là loại chứng khoán mà giá trị của 
nó được phái sinh từ giá trị của tài sản cơ sở (underlying assets). Chứng khoán 
phái sinh phổ biến bao gồm các loại hợp đồng kỳ hạn (forwards contracts), hợp 
đồng giao sau (futures contracts), hợp đồng hoán đổi (swaps contracts), và hợp 
động quyền chọn (options contracts). Các loại chứng khoán phái sinh này sẽ được 
xem xét ở các bài học sau này của môn học. 
6.4 Khái niệm về hiệu quả của thị trường tài chính 
Khái niệm hiệu quả thị trường tài chính rất quan trọng vì nó làm nền tảng cho 
nhiều lý thuyết và mô hình tài chính mà chúng ta sẽ xem xét trong các bài sau. 
Trong phạm vi bài này chỉ giới thiệu để các bạn làm quen với khái niệm và một 
số hình thức hiệu quả của thị trường tài chính. 
 Thị trường tài chính hiệu quả (efficient fiancial market) là thị trường tài 
chính trong đó giá hiện tại của tài sản tài chính phản ánh đầy đủ mọi thông tin 
có liên quan, nghĩa là giá thị trường của những chứng khoán riêng biệt thay đổi 
rất nhanh theo thông tin mới xuất hiện. Eugene Fama là người đi dầu trong việc 
nghiên cứu thị trường hiệu quả. Ông mô tả 3 mức độ hiệu quả của thị trường như 
sau: 
• Hình thức hiệu quả yếu – Giá cả hiện tại phản ánh đầu đủ kết quả giá cả 
trong quá khứ, hay nói khác đi, hiểu biết về động thái giá cả quá khứ sẽ 
giúp bạn cải thiện được khả năng dự báo giá cả trong tương lai. 
• Hình thức hiệu quả trung bình – Giá cả hiện tại phản ánh đầy đủ tất cả 
những thông tin được công bố chẳng hạn như báo cáo thường niên hoặc 
những tin tức có liên quan 
• Hình thức hiệu quả mạnh – Giá cả hiện tại phản ánh đầy đủ tất cả thông 
tin kể cả thông tin quá khứ, thông tin được công bố lẫn thông tin nội gián 
(thông tin mà chỉ có những người bên trong công ty mới biết). 

File đính kèm:

  • pdfTong quan ve phan tich bctc.pdf
Bài giảng liên quan