Bi kịch gia đình trong tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng

 BI KỊCH GIA ĐÌNH TRONG TÁC PHẨM

 MÙA LÁ RỤNG TRONG VƯỜN CỦA MA VĂN KHÁNG

 Mùa lá rụng trong vườn được Ma Văn Kháng viết xong tháng 12 năm 1982, xuất bản lần đầu năm 1985. Từ đó đến nay tác phẩm được tái bản nhiều lần. Năm 2001, nhà biên kịch Đặng Minh Châu chuyển thể Mùa lá rụng trong vườn và Đám cưới không giấy giá thú thành kịch bản văn học; đạo diễn Quốc Trọng dựng thành phim nhiều tập Mùa lá rụng.

Với vai trò là một trong những cuốn sách "tiền trạm" của Đổi mới mà ở đó chứa đựng nhiều dự báo sáng suốt, ngay khi vừa ra đời, Mùa lá rụng trong vườn đã được độc giả đón nhận một cách nhiệt tình. Chỉ trong hai năm 1985 và 1986 đã có hàng chục bài báo viết về tác phẩm này; báo Người Hà Nội đã tổ chức thảo luận bàn tròn về tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn; Hội Nhà văn Việt Nam trao giải B về văn xuôi cho Mùa lá rụng trong vườn. Đã hơn hai mươi năm trôi qua, trong khi biết bao tác phẩm một thời được coi là tiếng nói của thời đại, là “sách gối đầu giường” đã vơi cạn sức hút, Mùa lá rụng trong vườn vẫn còn được tìm đọc và còn gợi được nhiều suy nghĩ.

 

doc11 trang | Chia sẻ: baobinh26 | Lượt xem: 546 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bi kịch gia đình trong tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút TẢI VỀ ở trên
dung bức thư tuyệt mệnh anh để lại, Lý là nhân vật được Ma Văn Kháng khắc hoạ rất đậm nét trong tác phẩm. Lý là nhân vật phức tạp, có cá tính, có đời sống nội tâm phong phú. Có lúc chị đôn hậu đáng yêu, có lúc chị đanh đá tàn nhẫn. Nhà nghiên cứu Vân Thanh đã có những đánh giá về Lý như sau: “Nhân vật này mang nhiều nét đổi mới trong bút pháp tác giả. Đó là một phụ nữ đẹp, sắc sảo, tháo vát nhưng ít học. Khi còn trẻ, là một thiếu nữ mơ mộng, chị đã lấy một anh bộ đội hiền lành. Tự hào về sự anh dũng chiến đấu của chồng, chị đã chung thuỷ với chồng suốt những năm kháng chiến chống Mỹ ác liệt, đã một mình nuôi con thành người. Nhưng chị lại là một con người thích quyền hành muốn sai khiến người khác, dám đứng mũi chịu sào, tự coi mình hơn người, chị lại thích ăn diện, thích theo đòi cuộc sống xa hoa”[2, tr 161]. Đánh giá trên tuy chính xác nhưng còn thiếu phần lý giải. Nhà nghiên cứu chưa chú ý chỉ ra nguyên nhân dẫn đến những thay đổi dữ dội trong con người Lý. 
         Trước hết, kiểu gia đình nề nếp gia phong như nhà ông Bằng hoàn toàn xa lạ với Lý. Lý mồ côi bố mẹ từ lúc còn rất nhỏ. Tuổi thơ chị không được sống trong mái ấm gia đình, lớn lên lại không được cắp sách đến trường như bao đứa trẻ khác và sớm bị tiêm nhiễm lối sống xô bồ nơi thị thành. Ngay từ những năm đầu lên thành phố sống với chú, Lý đã quen với “những câu đùa cớt nhả, những lời ướm hỏi bóng gió và cái lối tán tỉnh sàm sỡ của đám trai hàng phố”. Tuổi mười lăm, Lý “ đã thinh thích một cái nhìn đưa đẩy, một cái vuốt má nghịch ngợm của một người đàn ông”. Nhà Lý ở cạnh nhà vợ chồng viên quan ba tàu bay. Hàng ngày chứng kiến cảnh cô vợ anh ta thướt tha trong bộ áo dài hoa hiên đi ra chợ, tìm đến những hàng bún, hàng phở ngon nổi tiếng, rồi nửa buổi trở về với một làn đầy thức ăn, niềm ao ước cuộc sống lứa đôi, cuộc sống đủ đầy, xa hoa, hưởng lạc thức dậy mãnh liệt nơi chị. Chị sớm tìm được thần tượng cho mình. Vì vậy, khi Đông xuất hiện trong bộ quân phục sĩ quan, sao vàng lấp lánh trên mũ, khẩu súng ngắn K54 kênh kênh bên hông là “Lý cảm mến và chẳng bao lâu đã yêu tha thiết anh đại uý quân đội nhân dân Việt Nam nọ”. Yêu Đông, lấy Đông là Lý yêu và lấy một thần tượng, là biến cái mộng thành vợ một sĩ quan như nữ sinh Đồng Khánh vẫn hằng lưu giữ trong tâm trí thành hiện thực chứ thực ra Lý chưa hiểu gì về con người Đông. Tiếp đó, Đông đi chiến đấu biền biệt. Năm thì mười hoạ anh mới được sống cùng vợ trong dịp nghỉ phép hay ra Hà Nội công tác. Trong chiến tranh những dịp ấy vô cùng hiếm hoi. Bởi vậy, thời gian họ sống với nhau vô cùng ít ỏi. Từ khi Đông trở về “hình ảnh một ông trung tá trong nỗi nhớ, một ông trung tá được miêu tả hết sức trừu tượng nhưng đầy hãnh diện trước mọi người” ở chị không còn. Bây giờ Đông là xương thịt như mọi người, đã về hưu, tự coi mình đã hoàn thành nghĩa vụ, sống đơn giản, bằng lòng với cuộc sống buồn tẻ - điều đó đã làm cho Lý hoàn toàn vỡ mộng. Câu nói: “Không hiểu tại sao tôi lại lấy ông đấy, ông Đông ạ?” trở thành câu nói  thường nhật mỗi khi chị không bằng lòng với chồng. Thêm nữa, tuổi 40 là tuổi hồi xuân, sắc đẹp của người phụ nữ đạt đến độ viên mãn nhất. Lý vốn đẹp, nay càng đẹp và  hấp dẫn hơn. Chị vẫn giữ nguyên vẻ tươi mát và duyên dáng. Nhiều người vẫn trầm trồ, ngưỡng vọng chị. Bản thân Lý cũng cảm nhận và tự hào về vẻ đẹp hình thể của mình. Sáng sáng, chị thường đứng trước gương ngắm tấm thân  ngọc ngà, trẻ trung gần như khỏa thân của mình.  Nhưng Đông thờ ơ  trước vẻ đẹp và những đòi hỏi chính đáng của chị, không còn là chỗ dựa tinh thần để chị có thể xẻ chia hay bộc bạch nỗi niềm tâm sự. Trong khi đó, bên chị không hiếm những kẻ nhăm nhăm lợi dụng cái phần tối tăm mà thực sự chị  cũng có thừa. Sự năng động, tháo vát của chị được lãnh đạo xí nghiệp sử dụng triệt để. Có điều, họ chỉ chú ý vào kết quả mà không quan tâm đến hành vi và cách thức làm việc để đạt được kết  quả đó của chị nên Lý không phân biệt được tốt -  xấu, trắng - đen, phải - trái. Mặt khác, họ tâng bốc chị quá mức. Nào là “cô là con người năng động nhất”, nào là “chị ấy là con dao pha của chúng tôi”. Vì thế, Lý nhầm  tưởng những hành động “đi cửa sau” của mình là thức thời, năng động phù hợp với xu thế thời đại. Từ đó, Lý có cái ảo tưởng mình có vai trò rất quan trọng “chị ngây ngất vì vinh quang, lòng tràn ngập cái cảm giác mình là nhân vật nổi trội nhất, tài năng nhất, có quyền hành cao nhất lúc này”. Chị thường kể một cách hào hứng với vẻ đầy tự hào về những việc làm của mình. Hơn thế, hàng ngày chị trực tiếp làm việc với tay trưởng phòng vật tư thoái hoá, lẳng lơ, lắm tiền nhiều mưu kế. Hắn sử dụng mọi mánh khoé xảo quyệt để quyến rũ chị. Sự chiều nịnh khéo léo cùng sự sành điệu trong các ngón ăn chơi của hắn đã đẩy Lý từ chỗ không làm chủ được cám dỗ vật chất đến sa ngã, hư hỏng. Tuy nhiên những lúc tỉnh táo chị hoàn toàn phân biệt được đâu là phải đâu là trái, đâu là tốt đâu là xấu. Chị nhận ra chân tướng, thủ đoạn của tay trưởng phòng và vạch trần bản chất xấu xa của anh ta. Chị cảm thấy ghê tởm anh ta, ghê tởm cả chính mình và thề sẽ không bao giờ gặp lại hắn nữa. Lúc ấy, chỉ cần có người tin cậy nâng đỡ, an ủi, sẻ chia là chị vượt qua được sự chông chênh đó. Nhưng người chồng vô lo đến mức vô tâm của chị đã không làm được việc ấy. Vì thế, tâm trạng Lý xáo động: có nhiều chiều lang thang vô định như kẻ mắc bệnh trầm cảm, có những buổi vẩn vơ một mình trên ghế đá và những đêm dài ngột ngạt, trơ trọi trong buồng vắng. Cuối cùng, Lý phó mặc cho “những cảm giác đòi thoả mãn và bất chấp” sai khiến, dẫn chị đến chỗ buông xuôi, trượt ngã. 
         Bản tính Lý là người thích quyền hành, thèm sai khiến người khác, tự coi mình là quan trọng, là hơn người. Từ ngày có Phượng chuyển về, vai trò của Lý trong gia đình giảm dần. Tệ hại hơn, sự tin cậy của mọi người đối với chị cũng không được như xưa. Luận gián tiếp nói lên điều đó khi ca ngợi chị Hoài là người chín chắn, trung thực, "hoàn toàn tin cậy được". Cần khéo léo từ chối sự mối mai của chị khi thông báo tháng sau cưới vợ. Còn ông Bằng, trong chúc thư, trao sổ tiết kiệm ba ngàn đồng cho Phượng chứ không phải cho chị, mặc dù chị là cô dâu trưởng và từ trước đến nay mọi việc lớn nhỏ trong nhà đều do bàn tay chị xếp đặt. Thêm nữa, Luận vốn là người hiểu và kính phục chị, luôn ca ngợi chị tài giỏi, tháo vát, chân tình nhưng bây giờ công khai lên án chị gay gắt, gọi chị là “quỷ sa tăng”. Niềm tin cậy, chỗ bám víu của chị trong gia đình không còn. Chị trở nên cô độc, trơ trọi. Gia đình giờ đây đâu còn là nơi an lạc của chị! Mọi người trong nhà giờ đâu còn chở che, nâng đỡ, vỗ về, an ủi chị! Bao nhiêu bực dọc, bao nhiêu cay đắng, bao nhiêu ấm ức bấy lâu chất chứa trong lòng chị tuôn ra. Chị như kẻ cùng đường, xù lông xù cánh chống trả: “Đối đáp bốp chát, ăn miếng trả miếng, chửi vỗ mặt nhau đanh đá hàng tôm hàng cá, thơn thớt dựng chuyện, vu khống đê tiện một cách nanh ác”. Những nét thô kệch, phàm tục do thiếu văn hoá căn bản trong Lý bộc phát ra hết, vì thế lúc này con người chị chỉ rặt những nét trâng tráo, vô liêm sĩ, bản năng và hoang dã. 
         Lý cùng đường. Mọi sợi dây ràng buộc chị với chồng và các thành viên trong gia đình đứt tung. Chị buông thả theo lối sống phóng túng, sa đoạ, trác táng với tay trưởng phòng vật tư thoái hoá biến chất. Sự hư hỏng của Lý diễn ra dần dần theo một quá trình buông thả mà không được sự hướng dẫn, giáo dục của tập thể, người thân. Chị vừa thiếu một nền tảng, căn cốt văn hoá vừa thiếu một người tri kỷ, định hướng nâng đỡ về tinh thần, lại chịu tác động mạnh mẽ những mặt trái của kinh tế thị trường, khiến chị không cưỡng lại được sự cám dỗ vật chất, lối sống vị kỷ, thực dụng, bản năng. Nhà văn luôn dõi theo những bước chân của Lý. Ông sung sướng, hả hê khi Lý là một nàng dâu xinh đẹp, đảm đang; một viên chức mẫn cán. Ông hóa thân vào ông Bằng ca ngợi Lý hiếu thảo; hóa thân vào Luận khen Lý tài giỏi, chân tình; mượn lời Phượng, lời ông thiếu tá khen Lý trẻ đẹp hay lời ông giám đốc xí nghiệp đánh giá Lý năng nổ, tháo vát. Ngược lại khi Lý sa ngã, hư hỏng, ông đau đớn, xót xa. Nỗi đau xót có khi nhà văn âm thầm nuốt vào lòng nhưng phần nhiều được bột phát thành những lời phê phán khá quyết liệt. Giận Lý, trách Lý chủ yếu là để trách cứ những thành viên trong gia đình đã không nâng đỡ, che chở và định hướng cho Lý; là trách tập thể, xã hội không giáo dục, uốn nắn kịp thời những sai phạm của chị mà lại bỏ mặc và cuối cùng bỏ rơi chị. Chính vì thế, nhà văn đã chọn giải pháp để chị hối hận, nhận ra sai lầm và xin trở lại mái nhà xưa. Mọi người trong gia đình cũng nhận thức được trách nhiệm của mình về sự sa ngã của chị và mở rộng cánh cửa đón chị trở về. 
          Một năm trôi qua, gia đình ông Bằng xẩy ra biết bao chuyện. Có ai ngờ ngôi nhà bề ngoài tưởng là êm ấm, thuận hoà ở đầu cái phố đẹp, ẩn mình dưới vườn cây yên tĩnh lại là một vùng chứa nhiều sóng gió đến thế. Một số thành viên trong gia đình  có người phải từ giã cõi đời, có kẻ phải tìm đến cái chết, có kẻ thương tích đầy mình, nhưng tất cả đã nhận ra chân lý: gia đình dù chỉ là giọt nước của biển cả, song nếu thiếu những giọt nước nhỏ bé ấy thì làm sao có được đại dương bao la! Chúng ta, những độc giả của Mùa lá rụng trong vườn không phải không có lúc băn khoăn về những trang viết có phần cường điệu về tính vô tâm, vô trách nhiệm và thái độ thụ động trước hoàn cảnh của Đông - một trung tá đã trải qua mấy chục năm “vào sinh ra tử”. Chúng ta cũng không hoàn toàn bằng lòng với một số giải pháp tác giả đặt ra trong tác phẩm, chẳng hạn việc ông để các nhân vật "nổi loạn" nhận ra lỗi lầm của chính họ quá dễ dàng. Nhưng về cơ bản Mùa lá rụng trong vườn là một tác phẩm tốt, để lại nhiều dư âm trong lòng người đọc, giúp họ thức nhận được vai trò quan trọng của mái ấm gia đình và những thông điệp nhà văn gửi gắm trong tác phẩm là đổi mới phải gắn liền với kế thừa. Đổi mới nhưng không bao giờ quên những tinh hoa truyền thống. Có như vậy, chúng ta vừa tránh được tụt hậu vừa giữ vững bản sắc dân tộc trong việc  xây dựng gia đình, xã hội Việt Nam hiện đại phù hợp  với xu thế hội nhập của thời đại mới.

File đính kèm:

  • docmua la rung trong vuon.doc
Bài giảng liên quan