Giáo trình Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam

Đảng Cộng sản Việt Nam do HồChí Minh sáng lập và rèn luyện, là đội tiên

phong cách mạng, bộthammưu chiến đấu của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam.

Dưới sựlãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã vượt qua mọi khó khăn gian khổvà hy sinh,

giành nhiều thắng lợi có ý nghĩa chiến lược và mang tính thời đại, làmcho đất nước, xã

hội và con người Việt Namngày càng đổi mới sâu sắc.Lịch sửcủa Đảng là một pho

lịch sửbằng vàng. HồChí Minh nói: "Với tất cảtinhthần khiêmtốn của người cách

mạng, chúng ta vẫn có quyền nói rằng: Đảng ta thật là vĩ đại!"

1

.

Đểkhông ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và phát huy truyền thống vẻvang

của mình, Đảng Cộng sản Việt Namrất coi trọng công tác nghiên cứu lịch sử Đảng và

tổng kết những bài học lịch sửtrong từng thời kỳcũng nhưtrong toàn bộtiến trìnhlãnh

đạo cách mạng của Đảng.

Nghiên cứu và tổng kết các bài học lịch sửcủa Đảng là một phương pháp tốt để

nâng cao trình độlý luận của cán bộ, đảng viên, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng,

góp phần khắc phục những xu hướng giáo điều và kinh nghiệm chủnghĩa trong Đảng.

Trên cơsởnghiên cứu và khái quát sâu sắc, toàn diện kinh nghiệm lịch sử đã tích lũy

được trong cuộc đấu tranh cách mạng của Đảng, nếu không hiểu được mối liên hệlịch

sửtất yếu và qua đó hiểu tiến trình phát triển có thểcó của các sựkiện, Đảng mới có thể

đềra được một đường lối chính trịhoàn chỉnh.

Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổchức chínhtrịcó quy luật hình thành, phát

triển vai trò lịch sửriêng trong tiến trình lịch sửViệt Nam.Do đó, lịch sử Đảng là đối

tượng nghiên cứu của một khoa học riêng - khoa học lịch sử Đảng.

Lịch sử Đảng gắn liền với lịch sửdân tộc. Theo đó, lịch sử Đảng là một khoa học

chuyên ngành của khoa học lịch sửvà có quan hệmật thiết với các khoa học vềlýluận

của chủnghĩa Mác - Lênin và tưtưởng HồChí Minh.

Mỗi ngành khoa học cómột phạmvi nghiên cứu cụthểtrong mối quan hệbiện

chứng với các khoa học khác. Khoa học lịch sửnghiên cứu vềxã hội và con người xã

hội, nghiên cứu vềcuộc sống đã qua của nhân loại một cách toàn diện trong sựvận

động, phát triển, với những quy luật phổbiến và đặc thù của nó. Lịch sửViệt Nam từ

năm1930 làlịch sử đấu tranh cách mạng kiên cường và anh dũng của nhân dân ta dưới

sựlãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,nhằmxóa bỏchế độthuộc địa của chủ

1. HồChí Minh:Toàn tập,Nxb. Chính trịquốc gia, Hà Nội, 2002, t.10, tr. 2.

2

nghĩa thực dân cũvà mới, xây dựng chế độmới. Đảng Cộng sản Việt Namlà người

lãnh đạo và tổchức mọi thắng lợi của nhân dân ta. Do đó, lịch sửViệt Nam(từnăm

1930 trở đi) và lịch sử Đảng Cộng sản Việt Namgắn bó hữu cơvới nhau.

Cách mạng là sựnghiệp của quần chúng nhân dân. Đảng là người đềra đường lối

cách mạng và tổchức lãnh đạo nhân dân thực hiện đường lối. Do đó, khoa học lịch sử

Đảng Cộng sản Việt Nam là một hệthống tri thức vềquá trình hoạt động đa dạng và

phong phú của Đảng trong mối quan hệmật thiết với tiến trình lịch sửcủa dân tộc và

thời đại. Với tưcách là một khoa học, Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam có đối tượng

nghiên cứu là tổchức và hoạt động của Đảng và các phong trào cách mạng của quần

chúng diễn ra dưới sựlãnh đạo của Đảng.

pdf193 trang | Chia sẻ: hongmo88 | Lượt xem: 1374 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút TẢI VỀ ở trên
 vấn đề khách quan xuất phát 
từ địa vị lịch sử của giai cấp công nhân, tồn tại suốt thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ 
nhân dân, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong chủ nghĩa xã hội cho đến khi 
xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản. Sự lãnh đạo của Đảng có nội dung cơ bản 
trước tiên là nhận thức quy luật vận động khách quan của cách mạng, diễn đạt quy luật 
đó thành mục tiêu, phương hướng giải pháp đạt mục tiêu, thể hiện trong cương lĩnh, 
đường lối, chủ trương của Đảng. Sau đó, Đảng tiến hành tuyên truyền, phổ biến mục 
tiêu, phương hướng, con đường đi tới mục tiêu cho dân biết, để dân bàn, dân làm và qua 
thực tế dân kiểm tra sự đúng đắn của đường lối, chủ trương giúp Đảng hoàn thiện, sửa 
đổi cho đúng hơn, làm cho hành động của quần chúng phù hợp hơn với quy luật, đưa 
cách mạng đi tới thắng lợi. Vì lẽ đó, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản luôn luôn 
là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng. 
ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, 
đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc, là lực lượng có vai 
trò đề ra đường lối, chủ trương cho cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng 
xã hội chủ nghĩa và tổ chức nhân dân tiến hành các cuộc cách mạng đó. Đường lối, chủ 
trương của Đảng đúng đắn, hợp quy luật, năng lực tổ chức xây dựng lực lượng, vận 
động quần chúng của Đảng cao, hiệu quả sẽ làm cho phong trào cách mạng của quần 
chúng phát triển, mau chóng đi tới thắng lợi, ngược lại, sẽ làm cho phong trào cách 
mạng gặp khó khăn, bị tổn thất, chậm đạt tới mục tiêu. 
 188
Đảng ta có sứ mệnh đó và có thể đảm đương được sự mệnh đó bởi Đảng có một 
số đặc tính riêng biệt mà các chính đảng khác không thể có: 
Thứ nhất: Khi đề ra đường lối, bao giờ các chính đảng cũng xuất phát từ lợi ích 
của giai cấp mình. Các giai cấp thống trị trước đây, lợi ích của họ chỉ trùng khớp với lợi 
ích của nhân dân, của dân tộc khi đất nước bị ngoại xâm, nên chỉ lúc đó họ mới được 
nhân dân ủng hộ. Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là 
đảng của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, nên khi đề ra đường lối phục vụ 
giai cấp mình cũng đồng thời Đảng cũng phục vụ nhân dân, phục vụ dân tộc. Bởi vậy, 
đường lối, chủ trương của Đảng luôn luôn phù hợp với lợi ích của nhân dân, của dân 
tộc, nên có tính đúng đắn cao, được nhân dân tin tưởng, ủng hộ, thực hiện. Đây là đặc 
điểm riêng có của Đảng ta, tạo nên nhân tố vừa chủ quan, vừa khách quan bảo đảm cho 
vai trò lãnh đạo của Đảng được vững chắc, lâu dài. 
Hồ Chí Minh cho rằng, ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, Đảng 
không có lợi ích nào khác và bản thân Người, với tư cách là người thành lập, lãnh tụ tối 
cao của Đảng cũng xác định: “Tôi chỉ có một sự ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước 
ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo 
mặc, ai cũng được học hành”. 
Thứ hai: Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, của dân tộc Việt Nam, do 
đó số lượng đảng viên không thể nhiều, tổ chức Đảng phải tinh gọn, điều đó khiến cho 
Đảng chỉ là một bộ phận nhỏ của giai cấp, của dân, tự mình, Đảng không thể đưa mục 
tiêu cách mạng thành hiện thực mà phải thông qua phong trào cách mạng của quần 
chúng nhân dân. V.I. Lênin nói: “Việc xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ không phải là việc 
riêng của Đảng Cộng sản - Đảng chỉ là một giọt nước trong đại dương - mà là việc của 
tất cả quần chúng lao động”1. Đó là lý do Đảng phải luôn luôn quán triệt trong mọi hoạt 
động của mình quan điểm sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, 
phải “lấy dân làm gốc”. Việc phải “lấy dân làm gốc” quy định Đảng phải thường xuyên thắt 
chặt mối liên hệ mật thiết với nhân dân, với dân tộc, làm cho Đảng được nhân dân che chở, 
giúp đỡ, tạo điều kiện để Đảng nắm bắt đúng, kịp thời tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, 
đề ra được đường lối, chủ trương đúng với dân, để đưa đường lối, chủ trương của Đảng 
vào cuộc sống. Vì vậy, tuy số lượng đảng viên không nhiều, song Đảng có chỗ dựa 
vững chắc, địa bàn rộng lớn, lực lượng hùng hậu, sức mạnh to lớn. 
Thứ ba: Do Đảng là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với 
phong trào công nhân và phong trào yêu nước do Hồ Chí Minh sáng lập, xây dựng, rèn 
luyện, nên Đảng có nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí 
Minh. Đó là hệ thống lý luận khoa học, tinh hoa trí tuệ của nhân loại và của dân tộc Việt 
Nam giúp Đảng có khả năng đề ra được đường lối, chủ trương cách mạng đúng đắn, 
phản ánh đúng quy luật phát triển của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa cũng 
như của cách mạng xã hội chủ nghĩa, vừa có tính nguyên tắc, không chệch hướng, vừa 
linh hoạt phù hợp với tình hình quốc tế và trong nước... 
- Về thực tiễn, bài học này cũng đã được lịch sử của Đảng và cách mạng Việt Nam 
1. V.I Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, t.45, tr. 110-111. 
 189
chứng minh trên thực tế. 
Trước năm 1930, khi cuộc đấu tranh của dân tộc ta do các tổ chức, cá nhân đại 
biểu cho giai cấp phong kiến địa chủ, nông dân, tư sản, tiểu tư sản lãnh đạo, dù đã diễn 
ra liên tục, anh dũng, song kết cục đều bị thất bại. Từ 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng, 
phong trào dân tộc, dân chủ của nhân dân ta mới từng bước đi tới thắng lợi. 
Trong những năm 1930-1945, với đường lối đúng đắn được đề ra trong Cương 
lĩnh đầu tiên của Đảng, lực lượng cách mạng nước ta từng bước được xây dựng với 
nòng cốt là khối liên minh công nông, quần chúng cách mạng được rèn luyện qua nhiều 
cuộc tổng diễn tập, mặt trận dân tộc thống nhất được xây dựng, lực lượng chính trị, vũ 
trang, căn cứ địa hình thành, do đó khi có thời cơ, Đảng đã phát động, tổ chức cuộc khởi 
nghĩa giành chính quyền thành công, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. 
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nhưng các thế lực đế quốc thực dân 
và tay sai câu kết với nhau, tái xâm lược Việt Nam lần nữa. Trước tình hình đó, Đảng 
xác định độc lập dân tộc vẫn là mục tiêu trực tiếp, chủ nghĩa xã hội là phương hướng 
tiến lên, kịp thời đưa ra bản chỉ thị kháng chiến kiến quốc, kết hợp dựng nước với giữ 
nước, thực hiện đoàn kết dân tộc, tiến hành thắng lợi cuộc đấu tranh chống giặc đói, 
giặc dốt, giặc ngoại xâm, bảo vệ được chính quyền cách mạng trong hoàn cảnh “ngàn 
cân treo sợi tóc”. 
Từ cuối năm 1946, khi thực dân Pháp dùng vũ lực để đặt lại ách thống trị của 
chúng lên toàn cõi nước ta, Đảng đã kịp thời phát động nhân dân toàn quốc nhất tề đứng 
lên kháng chiến, đề ra đường lối kháng chiến đúng đắn là thực hiện chiến tranh nhân 
dân, kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính. Nhờ đó, Đảng 
đã từng bước lãnh đạo, tổ chức cuộc kháng chiến tiến lên, đi tới thắng lợi vẻ vang sau 
cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954. 
Trong những năm 1954-1975, trước kẻ thù hùng mạnh, có âm mưu bá chủ thế giới 
và trước bối cảnh các nước xã hội chủ nghĩa có những bất đồng, Đảng đã suy nghĩ tìm 
tòi và cuối cùng tại Đại hội lần thứ III (1960) đã đề ra được đường lối chiến lược chung 
sáng suốt là tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng khác 
nhau ở hai miền, nhằm thực hiện một mục tiêu chung của cả nước là giải phóng miền 
Nam, hòa bình thống nhất Tổ quốc, nên đã tạo ra được sức mạnh tổng hợp đưa cuộc 
kháng chiến vĩ đại của dân tộc đi tới thắng lợi vẻ vang sau đại thắng mùa Xuân 1975. 
Trong những năm 1975-1985, do đường lối của Đảng mang tính chủ quan, nóng 
vội nên kinh tế- xã hội nước ta lâm vào khủng hoảng. Từ năm 1986, với đường lối đổi 
mới được đề ra tại Đại hội lần thứ VI, công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước có những 
bước chuyển rõ rệt, đạt được những thành tựu mới, đưa nước ta vượt qua khó khăn, 
chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thế và lực được tăng 
cường, vị thế quốc tế được nâng cao. 
Hiện nay, để bảo đảm cho sự lãnh đạo Đảng được đúng đắn, tiếp tục là nhân tố 
hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Đảng chủ trương phải hết sức 
chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then 
chốt, bảo đảm cho Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức... Đại hội lần thứ 
 190
X của Đảng nhấn mạnh: "Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công 
nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại 
biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc”1; 
phải “Tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng, tăng cường bản chất giai cấp công nhân 
và tính tiên phong, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; Xây dựng 
Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có bản lĩnh chính 
trị vững vàng, có đạo đức cách mạng trong sáng, có tầm trí tuệ cao, có phương thức 
lãnh đạo khoa học, luôn gắn bó với nhân dân"2, coi đó là "đòi hỏi có ý nghĩa sống còn 
đối với Đảng và nhân dân ta". 
Những bài học lịch sử quan trọng nói trên có quan hệ mật thiết với nhau. Với cơ 
sở khoa học đúng đắn, đã được lịch sử cách mạng Việt Nam, lịch sử của Đảng kiểm 
nghiệm, những bài học đó có ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn hết sức sâu sắc đối 
với Đảng và nhân dân ta, nhất là trong thời điểm hiện nay. 
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 
2006, tr. 130. 
2. Sđd, tr. 279. 
 191
Mục lục 
Bài mở đầu. Nhập môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam 
Chương I. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam 
Chương II. Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền (1930-1945) 
Chương III. Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 
 và can thiệp Mỹ (1945 - 1954) 
Chương IV. Đảng lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc 
 và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975) 
Chương V. Đảng lãnh đạo cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội và 
 bảo vệ Tổ quốc (1975-2006) 
Chương VI. Tổng kết lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng, thắng lợi 
 và bài học 
 192

File đính kèm:

  • pdfgt-lich su dang.pdf