Tư tưởng về văn chương và quốc văn của Xuân Diệu thời trẻ

Đã có biết bao nhiêu định ngữ gắn liền với cái tên Xuân Diệu ngay khi nhà thi sĩ trẻ xuất hiện trên thi đàn Thơ mới. Ông được coi là nhà thơ "mới nhất trong những nhà thơ mới" (Hoài Thanh), "thi sĩ nồng nàn nhất" (Vũ Ngọc Phan), đặc biệt trong thơ tình, dường như vượt lên tất cả các nhà thơ đương thời, những vần thơ tình say đắm của ông đã mở ra cho Thơ mới cả một vườn trần đầy hương sắc.

Sự vồ vập với thơ Xuân Diệu và rất nhiều hào quang quanh thơ ông đã phần nào lấn đi một phương diện khác rất đáng chú ý trong hoạt động văn chương của người thi sĩ trẻ khi ấy: đó là những tư tưởng đặc sắc của ông về văn chương và quốc văn được lên tiếng trực tiếp qua các bài phê bình, tiểu luận. Cho đến nay, một số bài viết ấy có vẻ như đã bị lãng quên: chúng không có mặt trong các Tuyển tập và ngay cả Toàn tập Xuân Diệu mới được xuất bản. Kỷ niệm 90 năm sinh của nhà thi sĩ rất giàu lòng yêu dấu này, cũng là một dịp nhìn lại những tư tưởng của ông để có một chân dung đầy đặn về ông, để càng hiểu thêm những động lực tư tưởng và cảm xúc làm nên cái mới và sức trẻ trong thơ ông. Và rộng hơn nữa, nghe thêm cả rất nhiều khát khao của Thơ mới, của văn chương đương thời được lên tiếng thông qua một đại diện xuất sắc của nó-nhà thi sĩ trẻ tài năng Xuân Diệu khi ấy đang ở tuổi 20. Những bài tiểu luận phê bình ấy cũng còn là một cách bộc bạch con người Xuân Diệu trong cuộc đối thoại với chính mình, với văn chương và thời đại.

 

doc8 trang | Chia sẻ: baobinh26 | Lượt xem: 599 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tư tưởng về văn chương và quốc văn của Xuân Diệu thời trẻ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút TẢI VỀ ở trên
nó.
Có thể nói, khá nhiều vấn đề về thơ, cả lý luận thơ cũng như trong việc phân tích thơ ca đương thời đã được nhà thơ trẻ Xuân Diệu đề cập đến, trong một lối nói đặc biệt của văn tiểu luận Xuân Diệu: mỗi con chữ là sự bộc bạch thẳng thắn trong một giọng văn tha thiết nồng nàn mà chứa đựng rất nhiều ý tứ mới mẻ sâu sắc.
“ÔNG HOÀNG CỦA THƠ TÌNH” NÓI VỀ THƠ ÁI TÌNH
1. Xuân Diệu với luận đề: Tôn giáo thờ ái tình không phải tôn giáo thờ phụ nữ
Khi ấy, chàng thi sĩ Xuân Diệu 22 tuổi, đang ở cái  tuổi hai mươi đẹp nhất như cách nói của Hoài Thanh. Người thi sĩ ấy đã thổi vào Thơ mới đương thời cả một luồng gió trẻ, xôn xao những nỗi niềm tình ái. Có thể nói từ khi Xuân Diệu bước chân vào làng thơ, Thơ mới mới lên một lần nữa cùng Xuân Diệu.
Bài cảo luận Đàn bà hay là người yêu - ái tình và khuôn sáo đăng trên Ngày nay số ra ngày 11-9-1938 là một trong những phát ngôn trực tiếp ít ỏi về ái tình của nhà thi sĩ được mệnh danh là "ông Hoàng của thơ tình" này. Bài cảo luận ra đời từ 60 năm về trước này có vẻ đã khuất vào quên lãng. Trong các Tuyển tác phẩm Xuân Diệu, cũng như trong các bài viết, công trình nghiên cứu về Xuân Diệu không thấy ai nói đến nó. Đây là một bài viết, theo chúng tôi, rất có ý nghĩa để thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của Xuân Diệu. Trong cảo luận có vẻ như một "tuyên ngôn" này, ta nhận ra tinh thần của Thơ mới đang háo hức mở rộng ranh giới cho những xúc cảm thơ ca. Và cũng nổi bật cái riêng, cái độc đáo, cái mới của tư duy Xuân Diệu. Luận đề đặt  ra mạnh mẽ, ấn tượng: "Đàn bà hay người yêu? ái tình và khuôn sáo". Lần theo mạch văn sôi nổi say sưa, cảm nhận được cả cái hơi thở nồng nàn của chàng thi sĩ trẻ, ta gặp con người Xuân Diệu ở tuổi hai mươi, bộc bạch và say đắm. Chàng thi sĩ ấy quyết chống lại khuôn sáo và hô hào tránh bàn chân khỏi những lối mòn: "Hỡi chàng trai trẻ đi trên đường kia, đẹp như một cây thông và mạnh như một chiếc tàu, ngừng lại đây và cho tôi dặn: Anh đừng chịu một khuôn sáo nào hết. Anh nên xét cho kỹ để chỉ nghe sự thành thực quả nhiên là thành thực của lòng anh. Anh kiếm ái tình, tôi biết. Hãy coi chừng không khí của anh thở! Người ta đã nhả vào trong không khí ấy không biết bao nhiêu là nhầm lẫn, a dua. Hãy đi một con đường mà anh thích đi chứ đi không phải vì một triệu bàn chân đã dậm nhẵn".
Tình yêu, như Xuân Diệu nói, "đã bị sự mờ tối loài người làm thành ra một tập quán" và "nhất là đã bị bọn văn sĩ, thi sĩ phái lãng mạn ca tụng một cách dễ dãi, ráng gân cổ lên, say mê nói những lời nói chật hẹp mà họ tưởng là chân lý của đất trời". Từ xưa đến nay, thi ca muôn đời ca tụng vẻ đẹp của Người đàn bà, của Nhan sắc, của Bí ẩn nữ tính. Có một thứ tôn giáo của yêu đương mà trung tâm thờ phụng là Người đàn bà, nhưng thi sĩ của chúng ta, người sùng kính cái tôn giáo ấy, đòi đổi thay thần tượng: "Tôi rất tin rằng có một tôn giáo của niềm yêu đương nhưng tôi muốn nói cho thế giới biết rằng Tôn giáo thờ  ái tình không phải tôn giáo thờ phụ nữ". Những lập luận được tung ra: Đàn bà đồng nghĩa với cái đẹp ư? - Không phải. Trong muôn loài giống đực luôn được trời phú cho cái mã đẹp nhất, trừ có loài người . Đàn bà đồng nghĩa với sức mạnh chinh phục ư? - Chẳng phải thế. Người đàn ông được yêu sẽ là vua chúa; ai được yêu, người ấy sẽ có quyền lực. Đàn bà huyền bí ư? - Cũng chẳng phải: ta yêu ai, người ấy thành huyền bí, sự huyền bí ở chính trong đầu ta đấy thôi; khi tình yêu hết, sự huyền bí ấy chẳng còn... Vậy thì, như nhà thơ nói, đừng theo một khuôn sáo nào, đừng bắt chước: "Chỉ có lòng ta, chỉ có lòng ta thôi! Lắng nghe sự chân thực của chính lòng anh; muôn lời nói của loài người đều là thừa, nếu lòng anh không cảm thấy. Hãy đạp đổ cái pho tượng Người đàn bà để dựng lên một cái đài bền hơn, đúng hơn, tặng cho Người yêu". Vậy là không có một Người đàn bà mơ hồ nào hết, chỉ có một Người yêu cụ thể, sát kề. Có lẽ Xuân Diệu không hẳn đã đập tan thần tượng Người đàn bà; thi sĩ chỉ đập vỡ cái vỏ ngoài ước lệ đẹp đẽ nhưng xa cách, vô hồn  của thần tượng để thể hiện ra lồ lộ một người tình gần gũi. Chỉ một động thái ấy mà bỗng đổi thay cả nhãn giới lẫn cảm quan của thơ tình. Những câu thơ tuyệt vời của Thế Lữ: "Cô em đứng bên hồ - Nghiêng tựa mình cây dáng thẩn thơ..."; của Lưu Trọng Lư "Còn đâu ánh trăng vàng - Mơ trên làn tóc rối" bỗng thành xa xôi như của thời nào trước cái nồng nàn riết róng cụ thể này ở thơ tình Xuân Diệu:
Hãy sát đôi đầu, hãy kề đôi ngực
Hãy trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài
và hơn nữa:
Nên lúc đôi môi ta kề miệng thắm
Trời ơi anh muốn uống hồn em
Chỉ có lòng ta! Chỉ có tình yêu, chỉ có người mà ta yêu dấu! Đó là khúc nhạc hân hoan khởi nguồn của thơ tình Xuân Diệu. Nhưng cũng không hẳn chỉ có thế. Tiếp đến, như một nốt nhấn bất ngờ - Xuân Diệu viết: "Người yêu sẽ không ở riêng trong phái nào, yếu hay mạnh. Người yêu, theo đúng nghĩa là những người mà lòng ta yêu".
Một hé mở nữa cho ta thấy cõi tình của thi sĩ. Bỗng bật lên trong trí nhớ những câu thơ Tình trai mà Xuân Diệu viết về đôi thi sĩ - tình nhân Rimbô và Véclen:
...Quên ngó môi son với áo màu
Thây kệ thiên đường và địa ngục!
Không hề mặc cả họ yêu nhau. 
2. Xuân Diệu và tuyên ngôn về thơ tình: Nếu tình yêu chỉ là tình yêu thì tôi yêu làm gì?
Trong bài cảo luận có ý nghĩa khá đặc biệt nói trên - bài Đàn bà hay người yêu - Ái tình và khuôn sáo, thi sĩ trẻ Xuân Diệu đã nói về Tình yêu và Người yêu. Cũng trên báo Ngày nay tháng 4 năm 1938, ông có bài cảo luận Thơ ái tình. Hai bài viết đặt cạnh nhau, bổ sung cho nhau, càng cho ta thấy rõ hơn đặc tính của hồn thơ Xuân Diệu và thơ tình Xuân Diệu.
Nếu tình yêu chỉ là tình yêu, thì tôi yêu làm gì? Lại một tuyên ngôn nữa về ái tình. Thì ra, người thi sĩ say đắm nồng nàn này còn gửi gắm trông đợi ở tình yêu nhiều hơn người ta tưởng. Không chỉ yêu như một tình nhân vồ vập, Xuân Diệu còn yêu như một triết nhân đặt vào chính tình yêu rất nghĩ ngợi. Một lối viết ấn tượng, đặc biệt Xuân Diệu để nói cái ý ấy: "Và chính bàn tay đã đàn trên phím thịt là bàn tay nâng lấy trán ưu tư".
Theo "triết lý" về ái tình của nhà thơ, thì tình yêu rộng hơn, lớn hơn rất nhiều so với bản thân nó, hoặc ít ra, so với điều người ta nghĩ về nó: "Ta để trong ái tình không biết ngần nào là thơ với mộng, những mơ ước bao la, những khát khao vòi vọi, đại dương của thương nhớ và sa mạc của cô đơn, những rừng rú của lo toan và cái đồng bằng của chán nản". Câu văn đầy hình tượng nhưng đây không phải là một cuộc phô diễn hình tượng đơn thuần. Ở đây chất chứa bao nhiêu khát vọng được bộc lộ hết bản chất người thông qua ái tình. Với cái ý này, Xuân Diệu là người rất sớm chạm đến được cốt lõi nhân văn của tình yêu trai gái. Cùng tình yêu, người ta có thể mở rộng cái nhỏ bé hữu hạn của sinh linh ra đến cõi vô cùng của tưởng tượng và suy tư. Quả đúng như lời chào đón hào hứng "một nhà thi sĩ mới" của Thế Lữ chỉ vài tháng trước đó: "Xuân Diệu là nhà thi sĩ biết yêu, theo nghĩa rộng rãi nhất của tình yêu" (báo Ngày nay, mùa xuân 1937). Bởi thế, khởi sự từ những đắm say, thơ tình Xuân Diệu là sự khao khát chiếm lĩnh cả cuộc đời này, cả thế giới này. Để từ đấy mà có nhạc, có thơ, có gió nước và mặt trời quấn quít trong một dáng hình:
Và nhạc phấn dưới chân mừng sánh bước
Và tơ giăng trong lời nhỏ khơi ngòi
Tà áo mới cũng say mùi gió nước
Rặng mi dài xao động ánh dương vui
Để rồi, trong một tương giao kỳ diệu và bí ẩn, trời đất đêm thanh hương hoa cũng thành nỗi nhớ, cũng tràn đầy tình ái và làm bật ra những câu thơ hay đến lạ lùng của Xuân Diệu:
Ngẩng đầu ngắm mãi chưa xong nhớ
Hoa bưởi thơm rồi: đêm đã khuya.
Xuân Diệu đã mở rộng, nâng cao thêm rất nhiều quan niệm về thơ tình.  Người thi sĩ trẻ đã đưa ra một định nghĩa mới, một tuyên ngôn mới về thơ tình: “Thơ ái tình, ấy là sự dồi dào của tình yêu núi sông, chim cá; thơ ái tình, ấy là nỗi khô cháy của một cửa hầu khát nước, cảnh đêm sao khi một lữ khách lạc đường, ấy là chân trời mênh mông, thau biển đắng đót; ấy cũng là miền huyền ảo của quá khứ, xứ bí mật của chiêm bao... Thơ ái tình, ấy là tình riêng, ấy là tình chung, ấy là sự thâu gồm cả thế giới trong một người, ấy là tất cả, ấy là thơ...". Có thể nói, đến Xuân Diệu, thơ tình có một chiều kích hiện hữu khác, trong một hệ qui chiếu khác, ở đây có vô vàn những sợi tơ giăng mắc với đời - "không gian như có dây tơ". Với Xuân Diệu, thơ tình không còn chỉ có nghĩa là thơ của 2 người, của những tiếng anh anh em em "đầy nhẫy trong các văn chương" - thứ thơ ấy "cũng sẽ như bao nhiêu lời bướm ong mà trai gái hát qua hàng rào, và hết mùa gió nồm là câu ca cũng mất".
Nói về tình yêu, về sự thầm kín riêng tư, con người ta - và thơ ca cũng thế thôi - vẫn thường phải dè giữ, không dám phơi bày đến tận cùng. Nhưng Xuân Diệu không bằng lòng với một sự nửa vời như thế: "Hễ dè giữ là không yêu, mà đã yêu là phải cho tất cả. Chính tình yêu là sự rốc cạn, thì ta tránh sao được sự phô bày. Thà rằng không nói, chứ đã nói đến tình yêu mà không nói cả tình yêu thì còn gì vô lý hơn? Với quan niệm ấy, thơ tình Xuân Diệu mạnh mẽ, nồng nàn, phơi bày tận đáy tâm hồn mình - chính điểm này làm nên cái điều chưa hề có vào thời ấy, làm nên cái mới và sức chinh phục của thơ Xuân Diệu.
Tưởng như đòi hỏi như thế đã là quá nhiều, quá "tham" đối với thơ. Nhưng đúng như cái tạng của Xuân Diệu - "gần hơn thế nữa vẫn còn xa lắm". Cho nên, thi nhân - tình nhân còn phải như một nhà khoa học, phải biết quan sát thí nghiệm mình, "kính hiển vi của người là con mắt bên trong, ngó vào cái thế giới lạ lùng của tình cảm; dao kéo của người dùng để phân tích những hiện trạng tâm lý, gồm bằng bao nhiêu sợi tơ tình vương vấn lấy nhau". Nói cách khác, "người làm thơ vừa cảm xúc, vừa xem mình cảm xúc, một cái tôi khi nào cũng đi bên cạnh cái tôi". Khó ai có thể phát biểu rõ hơn thế về bản chất cái Tôi Thơ mới từng làm nên một cuộc cách mạng trong thi ca, và bản chất cái Tôi trữ tình Xuân Diệu một lần nữa trẻ hóa Thơ mới bằng cuộc dấn thân và phiêu lưu vào thế giới ái tình để viết nên những câu thơ tình say đắm để đời, "nó không phải của riêng tôi hay của riêng một người nào, mà là của mọi người, qua thời gian, qua không gian"

File đính kèm:

  • docTu tuong ve van chuong va quoc van cua Xuan Dieu.doc
Bài giảng liên quan