10 bài thơ hay của thế kỷ 20

1) Nguyên Tiêu - Hồ Chí Minh

________________________________________

Nguyên Tiêu

Hồ Chí Minh.

Những nhà ngữ âm học chuyên sâu hẳn sẽ tìm thấy nhiều thú vị ở bài tứ tuyệt này. Một nhà nghiên cứu văn học đã rất có lý khi viết rằng, dù trong bài thơ không có từ sáng nào, nhưng ta vẫn cảm thấy tràn ngập ánh sáng. Bài thơ đọc theo nguyên tác có một âm vang vừa trang trọng vừa thanh quý.

Phiên âm:

Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,

Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên.

Yên ba thâm xứ đàm quân sự

Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.

1948

Dịch nghĩa:

Đêm rằm tháng riêng

Đêm nay, rằm tháng riêng, trăng vừa tròn,

Nước sông xuân tiếp liền với màu trời xanh.

Giữa nơi khói sóng thăm thẳm, bàn bạc việc quân,

Nửa đêm trở về, ánh trăng đầy thuyền.

1948

Dịch thơ:

Rằm tháng riêng

Rằm xuân lồng lộng trăng soi,

Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân.

Giữa dòng bàn bạc việc quân,

Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.

XUÂN THỦY dịch

 

doc14 trang | Chia sẻ: baobinh26 | Lượt xem: 518 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu 10 bài thơ hay của thế kỷ 20, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút TẢI VỀ ở trên
ông ra tuyến lửa 
Vạch lối điều quân 
Vai chảy xe thồ 
Trồng cây xanh che chở 
Mỗi bước quân đi 
Đánh trận trường kỳ 
Đêm trước nấp trong lùm bắn tỉa 
Sớm sau dàn trận chính qui 
Đến trận bão hiệp đồng cả nước 
Mỗi sư đoàn mang gió lốc bay đi... 
Đất giải phóng thênh thang 
Sẽ cho ta dàn đội ngũ - sư đoàn 
Phía trước gọi ta 
Những Điện Biên vòng đai thép tung ra làm chiến dịch 
Đòn gánh hậu phương vượt đèo đi phản kích 
Hành quân 
Hành quân 
Trùng điệp những sư đoàn 
Đi lên phía Bắc 
Tràn về hướng Nam 
Những vị tướng lại cầm quân đi đánh giặc 
Trải bản đồ 
Còn nguyên 
Vạch chỉ đỏ thắt quanh hầu giặc Pháp 
Bài học chiến tranh nhân dân 
Lại tiếp 
Trang ấp Bắc - Plây me 
Và chiến công lên ngực áo những binh nhì 
Đất nước sẽ cho ta 
Những chùm con số đẹp 
Làm tên gọi khai sinh sư đoàn thep 
Này đây 
Doi cát Cửu Long xanh 
Sư đoàn Châu Thổ 
Giữa bãi sú, rừng tràm 
Vụt đứng dậy sư đoàn Nam Bộ 
Sư đoàn Tây Nguyên 
Từ hầm chông bẫy đá cung tên 
Này đây Cực Nam Phan Rang - Phan Thiết 
Này đây Quảng Ngãi - Phú Yên 
Trên nguồn xa Ô Lâu - Thạch Hãn 
Sẽ tiến về 
Sư đoàn Trị Thiên 
Lại có một ngày 
Mọi cửa ô xanh Sài Gòn hớn hở 
Như Hà Nội đã từng 
Ba mươi sáu đường hoa tung sóng đỏ 
Phất rừng cờ thổi hồng ngọn gió 
Đón con em 
Đón những sư đoàn 
Mang chiến thắng trở về 
Rập bước 
Ca vang!
7) Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc - Văn Cao
Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc 
Văn Cao (1945)
Ngã tư nghiêng nghiêng đốm lửa 
Chập chờn ảo hóa tà ma... 
Đôi dãy hồng lâu cửa mở phấn sa 
Rũ rượi tóc những hình hài địa ngục 
Lạnh ngắt tiếng ca nhi phách giục 
Tình tang... Não nuột khóc tàn sương 
Áo thế hoa rũ rượi lượn đêm trường 
Từng mỹ thể rạc hơi đèn phù thể 
Ta đi giữa đường dương thế 
Bóng tối âm thầm rụng xuống chân cây... 
Tiếng xe ma chở vội một đêm gầy 
Xác trụy lạc rũ bên thềm lá phủ 
Ai hát khúc thanh xuân hờ ơi phấn nữ 
Thanh xuân hờ thanh xuân 
Bước gần ta chút nữa thêm gần 
Khoảng giữa tuổi thanh xuân nghe loạn trùng hút tủy 
Ai hủy đời trên tang trống nhỉ? 
Hay ác thần gõ quách nạo mồ khuya! 
Đảo điên... mê say... Thể phách chia lìa 
Nghe reo mạnh, chuỗi tiền cười lạnh lẽo! 
Tiền rơi! Tiền rơi! chùm sao huyền diệu 
Lấp lánh hằng hà gạo rơi! Tiền rơi! 
- Vàng mấy lá thừa đãi mây phủ chiếu 
Ngã tư nghiêng nghiêng chia nẻo 
Dặt dìu cung bậc âm dương 
Tàn xuân nhễ nhại mưa cô tịch 
Đầm đìa rả rích phương Đông 
Mang mang thở dài hồn đất trích 
Lưỡi thép trùng trùng khép cố đô 
Cửa ô đau khổ 
Bốn ngả âm u 
(Nhà ta thuê mái gục tự mùa thu 
Gác cô độc hướng về phường Dạ Lạc) 
Đêm đêm, dài canh tan tác 
Bốn vực nhạc động, vẫy người 
Giãy đèn chao thắp đỏ quạnh máu đời 
Ta về gác chiếu chăn gào tự tử 
Trên đường tối đêm khỏa thân khiêu vũ 
Kèn nhịp xa điệu múa vô luân 
Run rẩy giao duyên khối nhạc trầm trầm 
Hun hút gió nâng cầm ca nặng nhọc 
Kiếp người tang tóc 
Loạn lạc đòi xương chất lên xương 
Một nửa kêu than, ma đói sa trường 
Còn một nửa lang thang tìm khoái lạc 
Ngã tư nghiêng nghiêng xe xác 
Đi vào ngõ khói công yên 
Thấy bâng khuâng lối cỏ hư huyền 
Hương nha phiến chập chờn mộng ảo 
Bánh nghiến nhựa đường nghe sào sạo 
- Ai vạc xương đổ sọ xuống lòng xe 
Chiếc quỷ xa qua bốn ngả ê chề 
Chở vạn kiếp đi hoang ra khỏi vực 
Mưa, mưa hằng thao thức 
Trong phố lội đìu hiu 
Mưa, mưa tràn trên vực 
- Hang tối gục tiêu điều 
Mang linh hồn cô liêu 
Tiếng xe càng ám ảnh 
Tiếng xa dần xa lánh 
Khi gà đầu ô kêu.
8) Núi Đôi - Vũ Cao
Núi đôi 
Vũ Cao
Bảy năm về trước em mười bảy
Anh mới đôi mươi trẻ nhất làng
Xuân Dục, Đoài Đông hai cánh lúa
Bữa thì em tới bữa anh sang.
Lối ta đi giữa hai sườn núi
Đôi ngọn nên làng gọi núi Đôi
Em vẫn đùa anh sao khéo thế
Núi chồng, núi vợ đứng song đôi.
Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới
Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau
Mới ngỏ lời thôi đành lỗi hẹn
Đâu ngờ từ đó mất tin nhau.
Anh vào bộ đội lên Đông Bắc
Chiến đấu quên mình năm lại năm
Mỗi bận dân công về lại hỏi
Ai người Xuân Dục 
Núi Đôi chăng.
Anh nghĩ quê ta giặc chiếm rồi
Trăm nghìn căm uất bao giờ nguôi
Mỗi tin súng nổ vùng đai địch
Sương trắng người đi lại nhớ người.
Đồng đội có nhau thường nhắc nhở
Trung du làng nước vẫn chờ trông
Núi Đôi bốt dựng kề ba xóm
Em vẫn đi về những bến sông.
Náo nức bao nhiêu ngày trở lại
Lệnh trên ngừng bắn anh về xuôi
Hành quân qua tắt đường sang huyện
Anh ghé thăm nhà thăm núi Đôi.
Mới đến đầu ao tin sét đánh
Giặc giết em rồi, dưới gốc thông
Giữa đêm bộ đội vây đồn Thứa
Em sống trung thành, chết thủy chung.
Anh ngước nhìn lên hai dốc núi
Hàng thông, bờ cỏ, con đường quen
Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói
Núi vẫn đôi mà anh mất em.
Dân chợ Phù Linh ai cũng bảo
Em còn trẻ lắm, nhất làng trong
Mấy năm cô ấy làm du kích
Không hiểu vì sao chẳng lấy chồng.
Từ núi qua thôn đường nghẽn lối
Xuân Dục Đoài Đông cỏ ngút đầy
Sân biến thành ao nhà đổ chái
Ngổn ngang bờ bụi cánh dơi bay,
Cha mẹ dìu nhau về nhận đất
Tóc bạc thương từ mỗi gốc cau
Nứa gianh nửa mái lều che tạm
Sương nắng khuấy dần chuyện xót đau.
Anh nghe có tiếng người qua chợ
Ta gắng mùa sau lúa sẽ nhiều
Ruộng thấm mồ hôi từng nhát cuốc
Làng ta rồi đẹp biết bao nhiêu.
Nhưng núi còn kia anh vẫn nhớ
Oán thù còn đó anh còn đây
Ở đâu cô gái làng Xuân Dục
Đã chết vì dân giữa đất này?
Ai viết tên em thành liệt sĩ
Bên những hàng bia trắng giữa đồng
Nhớ nhau anh gọi em, đồng chí
Một tấm lòng trong vạn tấm lòng.
Anh đi bộ đội sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
Em sẽ là hoa trên đỉnh núi
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm.
9) Bên kia sông Đuống - Hoàng Cầm
Bên kia sông Đuống 
Hoàng Cầm ( Việt Bắc, tháng 4- 1948 )
Em ơi ! buồn làm chi 
Anh đưa em về sông Đuống 
Ngày xưa cát trắng phẳng lì 
Sông Đuống trôi đi 
Một dòng lấp lánh 
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ 
Xanh xanh bãi mía bờ dâu 
Ngô khoai biêng biếc 
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc 
Sao xót xa như rụng bàn tay 
Bên kia sông Đuống 
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng 
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong 
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp 
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp 
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn 
Ruộng ta khô 
Nhà ta cháy 
Chó ngộ một đàn 
Lưỡi dài lê sắc máu 
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang 
Mẹ con đàn lợn âm dương 
Chia lìa đôi ngả 
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã 
Bây giờ tan tác về đâu ? 
Ai về bên kia sông Đuống 
Cho ta gửi tấm the đen 
Mấy trăm năm thấp thoáng 
Mộng bình yên 
Những hội hè đình đám 
Trên núi Thiên Thai 
Trong chùa Bút Tháp 
Giữa huyện Lang Tài 
Gửi về may áo cho ai 
Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu 
Những cô nàng môi cắn chỉ quết trầu 
Những cụ già bay tóc trắng 
Những em sột soạt quần nâu 
Bây giờ đi đâu... Về đâu... 
Ai về bên kia sông Đuống 
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen 
Những cô hàng xén răng đen 
Cười như mùa thu tỏa nắng 
Chợ Hồ chợ Sủi người đua chen 
Bãi Tràm Chỉ người dăng tơ nghẽn lối 
Những nàng dệt sợi 
Đi bán lụa màu 
Những người thợ nhuộm 
Đồng Tỉnh, Huê Cầu 
Bây giờ đi đâu... về đâu... 
Bên kia sông Đuống 
Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong 
Dăm miếng cau khô 
Mấy lọ phẩm hồng 
Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm 
Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn 
Khua giầy đinh đạp gẫy quán gầy teo 
Xì xồ cướp bóc 
Tan phiên chợ nghèo 
Lá đa lác đác trước lều 
Vài ba vết máu loang chiều mùa đông 
Chưa bán được một đồng 
Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong 
Bước cao thấp bên bờ tre hun hút 
Có con cò trắng bay vùn vụt 
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu... 
Mẹ ta lòng đói dạ sầu 
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ 
Bên kia sông Đuống 
Ta có đàn con thơ 
Ngày tranh nhau một bát cháo ngô 
Đêm líu ríu chui gầm giường tránh đạn 
Lấy mẹt quây tròn 
Tưởng làm tổ ấm 
Trong giấc thơ ngây tiếng súng dồn tựa sấm 
Ú ớ cơn mê 
Thon thót giật mình 
Bóng giặc dày vò những nét môi xinh 
Đã có đất này chép tội 
Chúng ta không biết nguôi hờn 
Đêm buông xuống dòng sông Đuống 
- Con là ai - Con ở đâu về 
Hé một cánh liếp 
- Con vào đây bốn mảng tường che 
Lửa đèn leo lét soi tình mẹ 
Khuôn mặt bừng lên như dựng giăng 
Ngậm ngùi tóc trắng đang thầm kể 
Những chuyện muôn đời không nói năng 
Đêm đi sâu quá lòng sông Đuống 
Bộ đội bên sông đã trở về 
Con bắt đầu xuất kích 
Trại giặc bắt đầu run trong sương 
Dao lóe giữa chợ 
Gậy lùa cuối thôn 
Lúa chín vàng hoe giặc mất hồn 
Ăn không ngon 
Ngủ không yên 
Đứng không vững 
Chúng mày phát điên 
Quay cuồng như xéo trên đống lửa 
Mà cánh đồng ta còn chan chứa 
Bao nhiêu nắng đẹp mùa xuân 
Gió đưa tiếng hát về gần 
Thợ cấy đánh giặc dân quân cày bừa 
Tiếng bà ru cháu xế trưa 
Chang chang nắng hạ võng đưa rầu rầu 
“À ơi... cha con chết trận từ lâu 
Con càng khôn lớn càng sâu mối thù” 
Tiếng em cắt cỏ chiều xưa 
Căm căm gió rét mịt mờ mưa bay 
“Thân ta hoen ố vì mày 
Hờn ta cùng với đất này dài lâu...” 
Em ơi ! Đừng hát nữa ! Lòng anh đau 
Mẹ ơi ! Đừng khóc nữa ! Dạ con sầu 
Cánh đồng im phăng phắc 
Để con đi giết giặc 
Lấy máu nó rửa thù này 
Lấy súng nó cầm chắc tay 
Mỗi đêm một lần mở hội 
Trong lòng con chim múa hoa cười 
Vì nắng sắp lên rồi 
Chân trời đã tỏ 
Sông Đuống cuồn cuộn trôi 
Để nó cuốn phăng ra bể 
Bao nhiêu đồn giặc tơi bời 
Bao nhiêu nước mắt 
Bao nhiêu mồ hôi 
Bao nhiêu bóng tối 
Bao nhiêu nỗi đời 
Bao giờ về bên kia sông Đuống 
Anh lại tìm em 
Em mặc yếm thắm 
Em thắt lụa hồng 
Em đi trảy hội non sông 
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.
10) Tràng Giang - Huy Cận
Tràng Giang
Huy Cận 
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Lơ thơ cồn cỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu ***t vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

File đính kèm:

  • doc10 B￀I THƠ HAY CỦA TK 20.doc
Bài giảng liên quan