Bài giảng Bảo tồn đa dạng sinh học - Chương 5: Bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển bền vững

Phát triển bền vững và bảo tồn

Phát triển bền vững là sự phát triển mà trong đó các giá trị kinh tế, môi trường và xã hội luôn luôn tương tác với nhau trong quá trình quy hoạch; phân bố lợi nhuận công bằng giữa các tầng lớp trong xã hội và khẳng định các cơ hội cho sự phát triển kế tiếp, duy trì một cách liên tục cho các thế hệ mai sau.

Làm sao phát triển được nền kinh tế xã hội trong khi vẫn có thể giữ gìn, bảo vệ được thiên nhiên. Bảo tồn là để liên kết được việc bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên đặc thù với những nhu cầu phát triển có thể chấp nhận được của một bộ phận dân cư mà cuộc sống của họ phụ thuộc vào việc khai thác tài nguyên đó.

 

ppt33 trang | Chia sẻ: gaobeo18 | Lượt xem: 887 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Bảo tồn đa dạng sinh học - Chương 5: Bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển bền vững, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút TẢI VỀ ở trên
sản phẩm mới lấy từ các loài hoang dã và các loài thuần dưỡng. 	Khi ký vào công ước, các nước thành viên đã đồng ý thực hiện nhiều biện pháp khác nhau để bảo tồn đa dạng sinh học. Các biện pháp đó là:Xây dựng kế hoạch quốc gia về bảo tồn đa dạng sinh học Xác định các hệ sinh thái, các loài và các nguồn gen quan trọng để bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học Quan trắc đa dạng sinh học và các nhân tố có thể tác động đến đa dạng sinh học Thiết lập hệ thống các khu bảo tồn Quản lý tài nguyên sinh học để đảm bảo cho việc bảo tồn và sử dụng bền vữngPhục hồi các hệ sinh thái bị suy thoáiThiết lập hệ thống bảo tồn chuyển vịCông ước Đa dạng Sinh học,CBD (Convention on Biological Diversity)Hội nghị thượng đỉnh toàn cầuTuyên bố về Các nguyên tắc đối với Rừng. Sự nhất trí đạt được về công tác quản lý rừng đã gặp nhiều khó khăn vì những sự khác biệt sâu sắc về quan điểm giữa các nước ôn đới và nhiệt đới, các nước giàu và các nước nghèo. Cuối cùng đã đưa ra lời kêu gọi về quản lý rừng theo hướng bền vững mà không có một khuyến cáo nào kèm theo. Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu Lịch trình 21. Tài liệu 800 trang này là một cố gắng mới để trình bày một cơ cấu toàn diện về những chính sách cần thiết cho sự phát triển theo chiều hướng bảo vệ môi trường. Lịch trình 21 chỉ ra sự liên kết giữa môi trường và các vấn đề khác vốn vẫn thường được đưa ra cân nhắc một cách tách biệt như quyền lợi của trẻ em, sự nghèo khó, vấn đề phụ nữ, chuyển giao công nghệ,... Các kế hoạch hoạt động được vạch ra để giải quyết các vấn đề về khí quyển, suy thoái đất, hoang mạc hóa, phát triển các vùng núi, nông nghiệp và phát triển nông thôn, việc phá rừng, đất ngập nước, môi trường, thủy vực, và vấn đề ô nhiễm. Các cơ chế về tài chính, tổ chức, công nghệ và pháp luật để thực hiện những hoạt động này cũng được mô tả trong Lịch trình 21 Tài trợ quốc tế và phát triển bền vữngCàng ngày nhóm các nước phát triển ý thức được rằng nếu họ muốn bảo vệ đa dạng sinh học tại các nước đang phát triển giàu có về số loài nhưng lại rất nghèo về khả năng tài chính thì họ cần phải cung cấp tài chính. Những sự giúp đỡ của các tổ chức này rất đáng kể. Mặc dù quỹ sử dụng cho bảo tồn ở những nước đang phát triển được tăng một cách đáng kể nhưng số tiền chi trả vẫn chưa đủ để bảo vệ những căn nhà lớn của sự đa dạng sinh học rất cần thiết cho tương lai phát triển lâu dài của xã hội loài người. Quỹ Môi trường Toàn cầu (GEF), được thành lập năm 1991 do Ngân hàng Thế giới cùng với Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc UNDP và Chương trình Môi trường Liên Hiệp Quốc UNEP. Quỹ Môi trường Quốc gia (NEF) được thành lập tại trên 20 nước với nguồn vốn hỗ trợ của chính phủ Mỹ và các tổ chức khác như Ngân hàng Thế giới và Quỹ Bảo tồn Các loài Hoang dã Thế giới. Tài trợ quốc tế và phát triển bền vữngCác nước phát triển trả nợ thiên nhiên của mình bằng các hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học. Tất cả các nước đang phát triển nợ các cơ quan tài chính quốc tế khoảng 1,3 ngàn tỷ đô la, các ngân hàng thương mại là chủ nợ của họ sẽ bán lại những khoản nợ này với giá cực kỳ ưu đãi trong thị trường thương mại quốc tế. Các tổ chức bảo tồn quốc tế mua lại những khoản nợ này, sau đó khoản nợ sẽ được bãi bỏ cho các nước đang phát triển với điều kiện các nước này hàng năm phải bỏ ra một khoản tiền nội địa để tài trợ cho các hoạt động bảo tồn. Trong một cơ chế trao đổi nợ khác là các chính phủ của những nước phát triển là chủ nợ trực tiếp của các nước đang phát triển có thể quyết định cắt giảm phần nào các khoản nợ nếu như nước đang phát triển đồng ý sẽ đóng góp vào quỹ môi trường quốc gia hay cho các hoạt động bảo tồn một khoản tiền nhất định CREDITORUS$ 11 mWWF may initiate discussion betweenparties, acts as anintermediary, and facilitates negotiationsWWF may design conservation criteria by whichgrants made from the fund will be evaluated and/or oversee the fund’s managementCommercial Debt for Nature SwapsSTEP 1STEP 2US$ 28 mof debtNGO(WWF)US$ 28 mof debtis cancelledDEBTORGOVERNMENTUS$ 25 mlocal currencyequivalentSTEP 3CONSERVATIONPROJECT FUNDAssumes: 40% debt purchase price	 90% payment in local currency Các ngân hàng phát triển quốc tế và việc suy thoái hệ sinh tháiTốc độ phá hủy rừng nhiệt đới, tàn phá các nơi cư trú và mất mát hệ sinh thái thủy vực đôi khi lại còn được tăng cường bởi những dự án thiếu thận trọng tài trợ bởi những cơ quan phát triển quốc tế của những nước tiên tiến hay bởi các ngân hàng phát triển đa phương (MDB).Các ngân hàng phát triển đa phương được kiểm soát bởi các chính phủ của một số nước phát triển chính như Mỹ, Nhật Bản, Đức, Anh và Pháp. Các chính sách của MDB được các nước thành viên đại diện, các tổ chức bảo tồn xem xét tỷ mỉ. Đặc biệt, như một số dự án yếu kém của Ngân hàng Thế giới đã bị công luận phản ứng mạnh mẽ, Ngân hàng Thế giới phản hồi bằng cách phải đưa vấn đề bảo vệ đa dạng sinh học như một phần của chính sách trợ giúp của mình và đòi hỏi các dự án mới phải cân nhắc kỹ và có trách nhiệm hơn về vấn đề môi trường. 	Làm sao để các ngân hàng phát triển đa phương hoạt động có trách nhiệm hơn? Trước tiên họ phải ngừng ngay việc cho vay đối với những dự án làm phá hủy môi trường. Việc làm này đòi hỏi các ngân hàng phải phân tích các dự án phát triển bằng cách sử dụng các mô hình phân tích chi phí lợi nhuận kinh tế kể cả cho các tác động đến môi trường và hệ sinh thái của dự án. Phân tích chính xác một dự án phải bao gồm tất cả các chi phí, lợi nhuận, kể cả tác hại của xói mòn đất, sự mất mát đa dạng sinh học, tác động của ô nhiễm nước đến sức khoẻ của người dân địa phương, và các thiệt hại về thu nhập do việc các nguồn tài nguyên tái tạo bị phá hủy. Các chương trình thúc đẩy việc thay đổi trạng thái đất, xoá đói giảm nghèo vùng nông thôn, thiết lập các khu bảo vệ và thực sự phát triển bền vững phải được khuyến khích. Cho vay để phát triển: một số trường hợp cụ thểTừ những năm bảy mươi đến cuối những năm 80, Ngân hàng Thế giới đã cho chính phủ Inđônêxia vay 560 triệu đôla để định cư hàng triệu người Inđônêxia từ những đảo quá đông đúc như Java, Bai, Lombok đến những vùng thưa thớt dân cư tại các đảo Borneô, Niu Ghine và Sulaoesi. Những người định cư mới này dự định sẽ phải trồng lương thực để nuôi sống chính họ cũng như trồng những cây khác để bán và thu tiền mặt như cao su, cọ dầu, cacao để lấy tiền thanh toán các khoản vay cho Ngân hàng Thế giới. Chương trình di chuyển dân cư này đã thất bại về mặt môi trường và kinh tế vì đất đai vùng ven các đảo không phù hợp với các hoạt động nông nghiệp. Kết quả là rất nhiều người trong số những người di cư đến trở nên nghèo hơn, khánh kiệt và họ bắt buộc phải phá rừng để làm nông nghiệp theo lối du canh, du cư. Không chỉ có vậy, ít nhất 2 triệu ha rừng mưa nhiệt đới và khoảng gần 6 triệu ha các hệ sinh thái thủy vực ở xung quanh bị tàn phá bởi những người mới đến. Cho vay để phát triển: một số trường hợp cụ thểỞ Brazin: Dự án làm đường cao tốc tại bang Rondonia của Brazin là một ví dụ điển hình về sự thất bại thảm hại của một chương trình phát triển. Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Liên phát triển Châu Mỹ đã cho Brazin vay hàng trăm triệu đô la từ năm 1981 để xây dựng đường và các khu định cư mới trong khu vực này. Khi đường cao tốc đi qua Porto Velho, thủ phủ của bang Rondonia được khánh thành, những người nông dân sống tại miền Nam và Đông Bắc Brazin buộc phải chuyển khỏi mảnh đất ruột thịt của họ do các hoạt động công nghiệp gia tăng cũng như do luật sở hữu đất đai, từng đoàn người đã di chuyển xuống Rondonia để tìm kiếm những miền đất còn chưa có ai sở hữu. Hầu hết đất đai ở Rondonia không phù hợp cho các hoạt động nông nghiệp, tuy vậy vẫn được thu dọn lại để lấy đất đền bù cho nông dân. Kết quả là Rondonia trở thành nơi có tốc độ phá hủy rừng nhanh nhất trên phạm vi toàn thế giới trong thập kỷ của những năm tám mươi. Đỉnh cao của sự phá rừng là năm 1987, 20 triệu ha rừng (bằng 2,5% tổng diện tích của Brazin) đã bị thiêu cháy. Cùng một lúc, các dự án nông nghiệp, công nghiệp, giao thông được tiến hành tại đây mà không hề tiến hành bất cứ một nghiên cứu đánh giá tác động môi trường nào. Trong khi vội vàng phát triển khu vực, chính phủ Brazin cũng cho xây dựng một con đường đi qua Khu Bảo tồn Amerindian và các khu bảo tồn sinh học khác, việc làm này đã làm cho các khu bảo tồn đáng ra phải được bảo vệ một cách tuyệt đối lại được mở ra và trở thành đối tượng của việc phá rừng. Kết quả ở đây chỉ là sự phá hủy môi trường với một số lợi ích kinh tế không đáng kể. Cho vay để phát triển: một số trường hợp cụ thể Các dự án xây dựng đập nước. Một loại dự án quan trọng được các cơ quan, các ngân hàng phát triển hỗ trợ tài chính là xây dựng các đập thủy lợi và các nhà máy thủy điện. Những dự án này phá hủy những hệ sinh thái thủy vực lớn do việc thay đổi độ sâu của nước, chế độ dòng chảy, tăng việc lắng đọng trầm tích, tạo những rào chắn ngăn cản sự di chuyển, phát tán. Việc mất mát lớp thực vật che phủ trên những khu đất dốc làm cho đất bị xói mòn và gây lắng đọng trầm tích khiến cho công trình giảm bớt tính hiệu quả, chi phí bảo dưỡng sẽ tăng cao, gây ra những hủy hoại cho các mương máng thủy lợi và cho đập. Việc bảo vệ rừng và thảm thực vật tự nhiên của khu vực rừng đầu nguồn ngày nay được ý thức một cách rất rộng rãi như là một phương pháp quan trọng và rẻ tiền để đảm bảo tính hiệu quả và tuổi thọ của công trình thủy lợi này, đồng thời vẫn bảo tồn được một diện tích lớn nơi cư trú tự nhiên cho các loài động, thực vật. 	Một ví dụ thành công của công tác đầu tư vào môi trường có hiệu quả là khoản vay 1/2 triệu đô của Ngân hàng Thế giới cho dự án phát triển và bảo vệ Vườn Quốc gia Dumoga-bone tại phía Bắc Sulaoesi - Inđônêxia. 78.700 ha rừng mưa nguyên sinh nằm trong khu vực rừng đầu nguồn của một dự án thủy lợi trị giá 60 triệu đô (do Ngân hàng Thế giới tài trợ) cũng được chuyển sang làm Vườn Quốc gia. Trong trường hợp đặc biệt này, Ngân hàng thế giới có khả năng bảo vệ việc đầu tư ban đầu của mình thông qua việc hỗ trợ cho môi trường chiếm ít hơn 2% tổng chi phí dự án và thành lập được một Vườn Quốc gia lớn đi vào hoạt động. 

File đính kèm:

  • pptBao ton da dang Sinh hoc Chuong 5.ppt
Bài giảng liên quan