Bài giảng Địa lí Lớp 11 - Bài 7: Liên minh châu Âu EU - Tiết 2: EU. Hợp tác, liên kết để cùng phát triển (Bản hay)
Quyết định của EC gây tác động tiêu cực đến các DN Việt Nam Ngày 06/10/2006, sau hơn 01 năm điều tra, Ủy ban Châu Âu (EC) đã ra quyết định áp thuế chống bán phá giá 10% đối với giày mũ da xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU. Theo quyết định này, thời hạn áp dụng của biện pháp chống bán phá giá là hai năm và sẽ hết hạn vào ngày 07/10/2008. Cũng trong vụ này, giày mũ da của Trung Quốc đã bị áp thuế 16,5%.
Xung quanh vấn đề này, ông Nguyễn Thành Biên, Thứ trưởng Bộ Công thương cho biết, Việt Nam rất thất vọng về quyết định này của EC. Quyết định rà soát hoàn toàn trái với sự mong đợi của đông đảo người tiêu dùng cũng như của nhiều doanh nghiệp EU và không phản ánh quan điểm của đa số thành viên EU.
Trong hai năm vừa qua, giày mũ da của Việt Nam xuất khẩu sang EU đã giảm sút một cách đáng kể. Việc áp thuế chống bán phá giá không những gây tác động tiêu cực tới hoạt động sản xuất, kinh doanh của hầu hết các doanh nghiệp trong ngành da giày mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng tới công ăn việc làm của hơn nửa triệu lao động Việt Nam, trong đó chủ yếu là lao động nữ.
Việc EC quyết định tiến hành rà soát thuế chống bán phá giá sẽ càng ảnh hưởng nghiêm trọng hơn tới ngành công nghiệp da giày của Việt Nam trong bối cảnh tháng 6/2008 vừa qua, Liên minh châu Âu đã đưa ngành da giày Việt Nam ra khỏi diện được hưởng Quy chế ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) giai đoạn 2009-2011.
Trong khi Việt Nam đang làm hết sức để tạo dựng môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư, trong đó có các nhà đầu tư châu Âu, cũng như thúc đẩy các mối quan hệ hợp tác từ các nước châu Âu, việc EC quyết định tiến hành rà soát đối với sản phẩm giầy mũ da xuất khẩu từ Việt Nam sẽ gây ra những quan ngại cũng như tác động tiêu cực tới hoạt động kinh doanh và đầu tư giữa các doanh nghiệp Việt Nam và các đối tác châu Âu.
Việc tiến hành rà soát không những chỉ có tác động tiêu cực ở Việt Nam mà ngay cả tại Liên minh châu Âu, hoạt động kinh doanh, sản xuất của nhiều doanh nghiệp và đặc biệt là quyền lợi của người tiêu dùng cũng bị ảnh hưởng.
khó được bảo vệ ”. III. Tác động đến Việt Nam III. Tác động đến Việt Nam Đại sứ , Trưởng phái đoàn Uỷ ban châu Âu Markus Cornaro tại Việt Nam đưa ra những ví dụ cụ thể về những thách thức trong việc phải đa dạng hoá những mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam. Chẳng hạn , ngành dệt may - một ngành xuất khẩu thế mạnh của Việt Nam - vẫn đang còn phụ thuộc rất nhiều không chỉ vào thị trường xuất khẩu mà còn vào việc nhập khẩu những nguyên liệu thô . Một tình hình tương tự cũng được báo cáo chỉ ra trong ngành giày dép của Việt Nam. Tỉ lệ phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu từ bên ngoài vào trong ngành da giày của Việt Nam lên đến 85%. Điều này cũng thể hiện sự dễ tổn thương của ngành công nghiệp này khi xuất khẩu sang thị trường khác . Bằng chứng cụ thể nhất là vụ kiện chống phá giá từ EU áp đặt trong năm ngoái . Để giảm bớt sự phụ thuộc và dễ thay đổi của môi trường bên ngoài , báo cáo gợi ý cho các nhà sản xuất của Việt Nam cần thực hiện hai bước : một là , dịch chuyển lên thang giá trị cao hơn trong quá trình sản xuất ( bao hàm cả việc lưu ý bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ ); và hai là , cần có thương hiệu mạnh ở nước ngoài . Ngành thuỷ sản cũng được báo cáo nhìn nhận có tiềm năng xuất khẩu , riêng trong năm ngoái xuất khẩu mặt hàng này sang thị trường châu Âu tăng 7%. Tuy nhiên , Đại sứ Markus Cornaro cho rằng vấn đề đang đặt ra là tính bền vững của ngành này , xét tới năng lực sản xuất , năng lực xác định và loại trừ những tồn dư hoá chất có hại cho sức khoẻ và xét đến thương hiệu của chính ngành này của Việt Nam trên thị trường thế giới . III. Tác động đến Việt Nam Tương tự , một thách thức không nhỏ đối với ngành nông sản của Việt Nam cũng đang diễn ra . Tỉ lệ cà phê của Việt Nam xuất khẩu sang các thị trường trong những năm qua tăng trưởng 9% và kim ngạch đạt 610 triệu Euro. Tuy nhiên ngành này đang phải đối mặt với năng lực hạn chế về chế biến với lượng sản phẩm bị mất lên 20% trong tất cả các giai đoạn sau khi thu hoạch cũng như khả năng truy nguyên nguồn gốc của sản phẩm . Đại sứ Markus Cornaro nhấn mạnh khả năng truy nguyên nguồn gốc của sản phẩm là rất có ý nghĩa khi Việt Nam tiếp cận đến các thị trường khó tính . Một lĩnh vực nữa cũng được báo cáo đề cập và được EU rất quan tâm là viễn thông . Mỗi năm , trung bình ngành viễn thông Việt Nam đã tăng trưởng 20% với số lượng thuê bao tính tới thời điểm hiện nay là 27 triệu thuê bao . Báo cáo chỉ ra : ngành viễn thông Việt Nam mặc dù phát triển rất nhanh nhưng vẫn tồn tại một số vấn đề phải giải quyết như thiếu ý tưởng cải tiến hiện đại , mức giá thành cao , lượng băng thông truy cập còn tắc nghẽn . Vấn đề này cần được giải quyết khi tới đây Chính phủ triển khai quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp viễn thông . Lĩnh vực tiếp theo được nhấn mạnh là năng lượng của Việt Nam. Các nước EU, đặc biệt là Thụy Điển , Đức , Hà Lan tỏ ra rất quan tâm đến lĩnh vực này . Báo cáo khuyến nghị Chính phủ Việt Nam cần phải có khung hợp tác pháp lý đơn giản hơn trong lĩnh vực này . III. Tác động đến Việt Nam Một điểm yếu khác nữa Việt Nam đang gặp phải là đảm bảo tuân thủ quyền SHTT cũng như những vấn đề liên quan đến hệ thống thuế của Việt Nam. Báo cáo cũng dành 2 chương đề cập đến hệ thống thuế và ngành rượu , chất giải khát có cồn . Đại sứ Markus Cornaro dẫn một câu thành ngữ của Pháp , dịch nguyên nghĩa : “ Thuế quá cao sẽ tiêu diệt lợi nhuận ”. Theo Đại sứ , mặt hàng rượu và đồ uống có cồn của Việt Nam hiện mức thuế quá cao , khoảng 200%. Chính điều đó dẫn đến hệ quả 25% sản phẩm rượu , đồ uống có cồn bán tại Việt Nam là hàng giả . Về lĩnh vực tài chính , báo cáo cho biết các nhà đầu tư EU rất quan tâm bởi họ có khả năng chuyên môn cao để giúp Việt Nam trong lĩnh vực này . Và họ đặt nhiều hy vọng vào kế hoạch cải cách ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Trả lời câu hỏi của báo chí : liệu những đánh giá nhận xét về môi trường kinh doanh của Việt Nam được công bố trong báo cáo có tác động đến việc EU xem xét quy chế nền kinh tế thị trường cho Việt Nam hay không , Đại sứ Markus Cornaro cho rằng nền kinh tế thị trường là một khái niệm chung và không bị gắn quá chặt với việc có được cấp quy chế đó hay không . Đại sứ giải thích : khi chúng ta gắn với điều đó thì chúng ta lại nghĩ tới những biện pháp bảo hộ . “ Chúng tôi xem Việt Nam như nền kinh tế đang chuyển đổi sang kinh tế thị trường . Chúng tôi đang làm việc chặt chẽ với Cục Cạnh tranh-Bộ Thương mại Việt Nam để xét những diễn biến liên quan đến 5 tiêu chí mà EU sử dụng để trao quy chế kinh tế thị trường . Mục đích tham vọng của hai phía đó là làm sao để Việt Nam đáp ứng được quy chế này sớm hơn theo lịch trình WTO là 12 năm ”, Đại sứ nói . Lượng xuất khẩu hải sản của nước ta qua Châu Âu VN trước 6 tác động lớn từ khủng hoảng nợ châu Âu Xuất khẩu khó khăn kéo GDP sụt 1,7% Cuộc khủng hoảng nợ châu Âu kéo theo một loạt hệ quả tất yếu : tốc độ phục hồi kinh tế thế giới chậm lại , có thể theo hình chữ W thay vì chữ V, đặc biệt khu vực châu Âu sẽ phải chứng kiến tình hình thất nghiệp và lạm phát tăng cao , đồng Euro mất giá , tăng trưởng GDP giảm sút , làm cho thu nhập thực tế người dân và cầu tiêu dùng với hàng nhập khẩu giảm mạnh . Về vấn đề này , một số quan điểm cho rằng hàng hóa giá rẻ là ưu thế của Việt Nam do đó cuộc khủng hoảng nợ công sẽ giúp hướng người dân châu Âu chuyển từ hàng hóa cao và trung cấp sang hàng hóa do Việt Nam sản xuất . Tuy nhiên , những số liệu tính toán từ mô hình ước lượng cho thấy , cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu sẽ có những tác động tiêu cực đến xuất khẩu và tăng trưởng GDP của Việt Nam, với mức suy giảm khoảng 1,7% GDP trong năm 2010, cao thứ ba chỉ sau Trung Quốc (2,8%) và Anh (1,9%). Vì vậy , nếu không có những chính sách phản ứng kịp thời hỗ trợ xuất khẩu thì triển vọng trung hạn đối với xuất khẩu của Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn . III. Tác động đến Việt Nam 2. Lãi suất cao , doanh nghiệp thiệt nặng Do lo ngại tác động tiêu cực từ khủng hoảng nợ công , nhiều ngân hàng trung ương các nước phát triển vẫn duy trì mức lãi suất sàn thấp lịch sử nhằm kích thích sự phục hồi kinh tế và chấp nhận lạm phát trong chừng mực nhất định . Lãi suất cơ bản tiệm cận 0% ở hầu hết các nước : FED ( Mỹ ): 0,25%; ECB (EU): 1%; BOE ( Anh ): 0,5%; Nhật Bản 0,1%.Ngược lại ở Việt Nam, lãi suất huy động lẫn lãi suất cho vay vẫn đứng ở mức cao . Các doanh nghiệp phải vay vốn với lãi suất khoảng 14 – 16%/năm với kỳ hạn ngắn và khoảng 14,5 – 17%/năm với kỳ hạn trung , dài hạn . Nếu tính đến lạm phát ước cho năm 2010 là dưới 10%, doanh nghiệp phải đạt mức tỷ suất lợi nhuận trên 24 – 27%, là mức cao so với tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu bình quân của các ngành trong năm 2009 ( khoảng 20%). 3. FDI suy giảm Khủng hoảng nợ công châu Âu có thể tạo ra 2 tác động trái chiều hoàn toàn với luồng vốn FDI trên phạm vi toàn cầu . Trong những quốc gia có trình độ phát triển tương đương với các nước thuộc EU sẽ hưởng lợi do nguồn vốn FDI sẽ dịch chuyển từ châu Âu sang các quốc gia này khi nhà đầu tư muốn tránh thuế thu nhập doanh nghiệp đang có xu hướng tăng cao tại các quốc gia châu Âu . Ngược lại , các nước có trình độ phát triển thấp như Việt Nam lại hoàn toàn không được hưởng lợi từ việc dịch chuyển luồng vốn FDI khỏi châu Âu do sự chênh lệch quá lớn về trình độ công nghệ , trong khi luồng vốn từ các nhà đầu tư châu Âu vào các quốc gia này giảm sút do cuộc khủng hoảng nợ . III. Tác động đến Việt Nam 4. Giá vàng bùng nổ hút vốn đầu tư Các nhà đầu tư trên thế giới đang tìm vàng như một nơi trú ẩn an toàn trước nguy cơ cuộc khủng hoảng nợ châu Âu ngày một lan rộng , làm cho giá vàng trong thời gian qua tăng mạnh , lên mức trên 1.300 USD/ounce. Điều này phản ánh nhu cầu về dự trữ an toàn hơn so với đồng tiền giấy , sau khi nhiều cá nhân và tổ chức ở châu Âu , châu Á đua nhau mua vàng , bạch kim và bạc . Việc giá vàng tăng cùng với xu hướng tăng mạnh của đồng USD là điều ít khi xảy ra . Rất có thể sẽ tăng tới một kỷ lục mới trong thời gian tới và tạo sự tách biệt hoàn toàn giữa giá tài sản vàng và các tài sản khác . Điều này sẽ tác động xấu đến đầu tư toàn thế giới và Việt Nam bởi một khi vàng chiếm tỷ trọng lớn trong danh mục đầu tư của các tổ chức thì cũng đồng nghĩa với việc các danh mục khác như cổ phiếu , trái phiếu sẽ bị giảm mạnh . Như vậy , luồng vốn đầu tư gián tiếp càng trở nên hạn chế . III. Tác động đến Việt Nam 5. Bảo hiểm rủi ro tín dụng (CDS) xu hướng tăng lên Vấn đề Hy Lạp đang làm cho các nhà đầu tư trên thế giới càng trở nên thận trọng hơn với các quốc gia có vấn nạn tương tự : 3 số liệu cảnh báo bao gồm : nợ quá nhiều , thể hiện ở tỷ lệ nợ trên GDP cao ; chi tiêu quá mức , thể hiện ở mức thâm hụt ngân sách lớn so với GDP; và tốc độ tăng trưởng GDP sụt giảm . Hệ quả là Việt Nam với tỷ lệ nợ cao , thâm hụt ngân sách triển miên đang bị các tổ chức tài chính quốc tế xếp vào mục rủi ro cao , với mức CDS là 263, xếp ngay trên Hy Lạp (321) và Iceland (466). Điều này sẽ là một cản trở rất lớn trong việc thu hút các luồng vốn đầu tư gián tiếp , trực tiếp và cho vay từ nước ngoài . 6. Tăng rủi ro hối đoái và biến động tỷ giá vào cuối năm Khủng hoảng nợ châu Âu cũng tạo ra những biến động khó lường về tỷ giá . Đồng USD và đặc biệt là đồng Yên sẽ tiếp tục đà tăng mạnh so với đồng Euro do tính an toàn từ phía các đồng tiền này . Từ khi cuộc khủng hoảng có dấu hiệu nghiêm trọng , đồng Euro mất giá tương đối so với USD. Sang tháng 6, tỷ giá USD/Euro chỉ còn 1,19, rất thấp so với mức xấp xỉ 1,4 của đầu tháng Ba , do đó sẽ tạo ra những rủi ro nhất định trong việc vay , trả ngoại tệ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng như cho hoạt động ngoại hối của các ngân hàng thương mại . Ngoài ra , đồng USD tăng giá mạnh trong khi thâm hụt thương mại của Việt Nam đang gia tăng , cộng với thời điểm đáo hạn của các khoản vay tín dụng ngoại tệ , sẽ gia tăng sức ép tăng rủi ro hối đoái và biến động tỷ giá vào các tháng cuối năm 2010. III. Tác động đến Việt Nam Đồng tiền EURO Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài thuyết trình của nhóm 1.
File đính kèm:
bai_giang_dia_li_lop_11_bai_7_lien_minh_chau_au_eu_tiet_2_eu.ppt