Bài giảng Giới thiệu về chuỗi cung ứng
Chương 1: Tổng quan về CCU
Chương 2: Cấu trúc CCU và các vấn đề cần quan tâm
Chương 3: Hoạt động của CCU
Chương 4: Quản lý CCU
Chương 5: Chất lượng và Đo lường hiệu suất trong CCU
hàng không thường xuyên: chu kỳ đặt hàng lớn hơn 6 tháng.• Khách hàng tiềm năng: khách hàng đang yêu cầu cung cấp mẫu, hoặc đang đặt hàng số lượng nhỏ để thăm dò và cả khách hàng đang tìm hiểu công ty (đến thăm nhà máy, tìm hiểu sản phẩm trên mạng).• Khách hàng chính: là khách hàng chiếm tỉ trọng lớn trong doanh thu.Những khách hàng chính chiếm tỉ trọng rất lớn trong doanh thu mang lại nhiều cơ hội và thách thức cho công ty. Trong điều kiện bình thường, Koda tập trung đầu tư các nguồn lực của mình vào các khách hàng này. Khi bất lợi, việc mất họ (nhất là P.B) sẽ gây mất cân đối trong doanh thu. Để giảm thiểu rủi ro, Koda phải luôn tìm kiếm những khách hàng khác để làm đối trọng với nhóm khách hàng chính.2. Nhà cung cấpCác nhà cung cấp ở Koda có thể được chia làm 2 dạng: nhà thầu phụ và nhà cung cấp nguyên liệu.• Các nhà cung cấp nguyên liệu (Supplier): là những người cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ cho Koda (hardware, carton). Hiện nay có khoảng 36 nhà cung cấp.• Các nhà thầu phụ (Subcontractor): là các nhà máy thực hiện các hợp đồng gia công bán thành phẩm cho Koda. Hiện nay có khoảng 89 nhà thầu phụ nằm ở thành phố Hồ Chí Minh và rải rác ở các khu công nghiệp lân cận.Koda rất chú trọng xây dựng mạng lưới cung cấp vì tất cả sản phẩm đều gia công bên ngoài. Chất lượng sản phẩm của các nhà thầu phụ sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng, thương hiệu Koda. Koda phân chia họ thành các dạng như sau:• Nhà thầu phụ chính: chất lượng ổn định đáp ứng được yêu cầu của Koda. Các nhà máy này có sản phẩm của Koda chiếm trên 80% dung lượng sản xuất và được Koda đầu tư tài chính, hỗ trợ kỹ thuật ngay từ lúc đầu để giúp họ thiết lập quy trình theo tiêu chuẩn Koda. Họ được ưu tiên các đơn hàng, các hợp đồng mới. Với ưu thế tuyệt đối về tỉ trọng hàng hoá, Koda dễ dàng trong việc kiểm soát các nhà thầu phụ này với vị thế đàm phán cao. Hiện nay, Koda có 5 nhà thầu phụ chính là Tân Phú, Thuận Tấn, Đại Phú Phú và Fuji Denso và Rossano.• Nhà thầu phụ dự phòng: là các nhà máy thực hiện gia công không thường xuyên cho Koda (những sản phẩm đòi hỏi kỹ thuật cao, số lượng hàng hoá thấp, giá trị hợp đồng không lớn). Các nhà máy này có tỉ trọng hàng Koda thấp và được Koda sử dụng khi các nhà thầu chính bị quá tải hoặc cho những đơn hàng bất thường.• Nhà thầu phụ tiềm năng: các nhà máy sản xuất đang được Koda nhắm đến, xây dựng, hỗ trợ để trở thành các nhà thầu phụ chính trong tương lai.Nhận diện chuỗi cung ứng công ty KodaCăn cứ vào:• Số lượng mẫu mã mới được giới thiệu trên thị trường hằng năm (khoảng hơn 200 mẫu với hơn 85% số mẫu mới được đặt hàng), sản phẩm mang tính cải tiến, vòng đời ngắn, tồn kho ít. Khả năng cạnh tranh cao.• Số chủng loại hàng hoá khác nhau cùng thực hiện trong 1 thời điểm• Độ phức tạp của chuỗi không cao nhưng mạng lưới nhà cung cấp được liên kết khá chặt chẽ.Chuỗi cung ứng công ty Koda và dạng “chuỗi tốc độ đến thị trường” (Speed to Market). Chuỗi dạng này được đánh giá là hoạt động có lợi nhuận cao, hiệu suất cao (thời gian đáp ứng ngắn, chi phí thấp, năng lực sản xuất cao và cảm nhận của khách hàng về chuỗi tương đối tốt).Các chức năng hoạt động1. Kế hoạchCác Order được nhận tiếp nhận ở văn phòng chính Singapore và chuyển về Việt Nam. Bộ phận kế hoạch lên lịch sản xuất chính, lịch này được chuyển tới các bộ phận liên quan, nhà thầu phụ, nhà cung cấp hàng tuần.2. Thu muaKoda chỉ thực hiện các giai đoạn cuối trong quy trình sản xuất. Các nguyên liệu và bán thành phẩm được cung cấp bởi các nhà thầu phụ bên ngoài. Mỗi nhà thầu phụ đều có Q.C của Koda tham gia việc kiểm tra chất lượng trước khi hàng xuất xưởng.3. Sản xuấtKoda sản xuất theo đơn hàng. Sản phẩm kết hợp các chi tiết có nguồn gốc từ nhiều nhà thầu phụ để thực hiện các công đoạn sản xuất tiếp theo. Để bảo vệ các bí quyết kinh doanh, mỗi chi tiết khác nhau của sản phẩm sẽ được thực hiện bởi các nhà cung cấp khác nhau. Sự không đồng nhất về trình độ kỹ thuật cũng như chất lượng của các nhà cung cấp luôn là vấn đề lớn cho bộ phận sản xuất. Đặc điểm sản phẩm: dạng tháo rời khi đóng gói, khách hàng có thể lắp ráp sau khi mua hàng theo các giấy hướng dẫn kèm theo. Đặc điểm này giúp Koda giảm chi phí trong sản xuất cũng như đóng gói, lưu kho và vận chuyển. Thiết kế sản phẩm mới là một trong những lợi thế cạnh tranh lớn của Koda (2 ngày/ sản phẩm mới). Hàng mẫu của Koda được cung cấp miễn phí, nhưng khách hàng phải trả chi phí vận chuyển.4. Phân phốiKoda không bán lẻ sản phẩm ra thị trường. Sản phẩm đến người tiêu dùng thông qua các kênh phân phối bên ngoài. Tính theo các trung gian phân phối, sản phẩm Koda qua tối đa 5 trung gian trước khi đến được tay người tiêu dùng.Trong một số trường hợp, Koda sản xuất những sản phẩm mang tên và nhãn hiệu của những công ty khác. Koda nhìn nhận việc này như “một cách thức để đưa sản phẩm ra thị trường, nhất là ở những thị trường mới, thông qua những nhà phân phối có uy tín mà sản phẩm Koda đến được tay người tiêu dùng” (Richard Chia).Các hoạt động xuất nhập đều thông qua tổ chức hậu cần bên ngoài.5. Trả lạiTrong quá trình sản xuất bên trong và bên ngoài chuỗi cung ứng, sản phẩm sai hỏng bị trả về công đoạn trước hoặc bị loại ra. Tại Koda, nếu số lượng hàng thay thế ít, nó được thực hiện bởi IE, nếu số lượng lớn, nó được kèm vào lịch sản xuất chính.Đo lường hiệu suất hoạt động của chuỗi cung ứng công ty KODAHiệu suất hoạt động của chuỗi cung ứng này được tính từ người khai thác gỗ đến người tiêu dùng. Do hạn chế về thông tin nên đề tài chỉ giới hạn trong phạm vi từ các nhà thầu phụ thứ nhất (5 nhà cung cấp chính), Koda và người mua hàng trực tiếp (5 khách hàng chính). Theo lý thuyết chuỗi cung ứng, hiệu suất của chuỗi là hiệu suấtthấp nhất đang tồn tại ở một điểm nào đó trong chuỗi (điểm thắt cổ chai). Vì thế ý tưởng chính khi đo lường hiệu suất chuỗi cung ứng là tìm kiếm và cải tiến điểm giới hạn này nhằm nâng cao hiệu suất toàn chuỗi. Với phạm vi nghiên cứu hẹp, điểm thắt cổ chai cục bộ chưa hẳn là điểm có công suất thấp nhất chuỗi nhưng việc đo lường này có một số ý nghĩa nhất định cho nhà quản lý:Các thông số đo lườngTheo David Taylor khi đo hiệu suất chuỗi cung ứng cần chú ý:• Chỉ đo được hiệu suất các thành viên bên ngoài một công ty nếu có đủ các thông tin đáng tin cậy. Người ta chỉ có thể cải tiến được những gì mà mình đo được.• Việc chọn lựa các chỉ số đo lường tuỳ vào mục tiêu, chiến lược của công ty.Trước tình hình chung giá nguyên liệu, nhiên liệu, giá nhân công đồng loạt tăng, Giám Đốc Koda đã nhận định rằng: “Chiến lược sản xuất chi phí thấp, giá thấp không còn phù hợp với giai đoạn hiện nay vì lợi nhuận biên thấp không đủ sức cạnh tranh.Chiến lược của công ty trong tình hình mới là tập trung vào chất lượng sản phẩm, chất lượng cao, giá cao” (Richard Chia).Do vậy, việc đo lường hiệu suất sẽ tập trung vào các vấn đề chất lượng mà công ty quan tâm nhất:1. Độ tin cậy trong giao hànga. Đo lườngKoda quan tâm đến độ tin cậy trong giao hàng (tỉ lệ giao hàng đúng hẹn, % đơn hàng hoàn hảo). Trong đó:Kết quả đo lường cho thấy:• Độ tin cậy trong giao hàng của các lớp khác trong chuỗi thì khác nhau.• Độ tin cậy trong giao hàng của lớp sau Koda thấp hơn lớp phía trước, có nghĩa là Koda phải bù vào năng lực của các nhà thầu phụ• Độ tin cậy trong giao hàng giữa các nhà thầu phụ không giống nhau.• Độ tin cậy trong giao hàng tại Fuji Denso và Thuận Tấn rất đáng quan tâm.2. Đo lường tỉ lệ phế phẩma. Đo lườngTỉ lệ phế phẩm tại Koda (trong quá trình sản xuất) là 0.35%.Tỉ lệ phế phẩm tại các nhà cung cấp là:b. Nhận xétTỉ lệ phế phẩm của Koda tương đối thấp so với các nhà cung cấp. Tỉ lệ phế phẩm tại Fuji Denso rất lớn, nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của công ty.3. Đo lường sự linh hoạt của sản phẩma. Đo lườngKhi đánh giá sự linh hoạt của chuỗi, người ta xem xét hai yếu tố là sự linh hoạt của sản xuất và sự linh hoạt của sản phẩm. Cả hai yếu tố này đều ảnh hưởng đến chất lượng công ty, khách hàng sẽ hài lòng hơn nếu họ cảm nhận được sự linh hoạt của chuỗi được cải tiến. Do thực tế chưa đo lường được sự linh hoạt của sản xuất nên đề tài tập trung vào chỉ số đo lường sự linh hoạt của sản phẩm – một những lợi thế cạnh tranh của Koda.b. Nhận xét21 sản phẩm trong vòng 3 tháng bị đánh giá là thấp.Theo thống kê, có tất cả 48 mẫu mới được Koda thực hiện trong vòng 3 tháng cho tất cả khách hàng. Koda đang nỗ lực hơn nữa để tăng sự linh hoạt này như một yếu tố duy trì và nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng.Thực hiện cải tiếnKinh doanh ngày nay như một cuộc chạy đua, nếu không qua mặt người khác chắc chắn sẽ bị người khác vượt qua (Richard Chia).Thấy gì qua kết quả đo lườngKết quả đo lường cho thấy, 3 tháng đầu năm sự tin cậy trong giao hàng giảm đột ngột nhưng tỉ lệ phế phẩm và sự phàn nàn tăng của khách hàng tăng bất thường. So sánh các chỉ số chất lượng qua các thời đoạn, ta dễ dàng nhận ra điều đó.Việc tìm kiếm nguyên nhân và cách thức cải tiến tình trạng này trở nên một yêu cầu cấp thiết đối với Koda. Để thực hiện cải tiến, Koda thành lập nhóm chất lượng để tìm hiểu và giải quyết các vấn đề trên. Nhóm được hỗ trợ bởi các bộ phận liên quan và được gởi tới các nhà thầu phụ. Tại đây, nhóm kết hợp chặt chẽ với Q.C ngoài của Kodatrong việc tìm hiểu tình hình chất lượng thực tế của nhà máy. Mức độ cộng tác của các nhà thầu phụ ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ tin cậy trong kết quả nghiên cứu của họ.Các vấn đề được lựa chọn giải quyết là những vấn đề xảy ra với tần suất lớn hoặc những vấn đề bị các nhà quản lý Koda đánh giá là nghiêm trọng. Điều khó khăn nhất khi thực hiện cải tiến là không có một nguyên tắc chung nào để có thể giải quyết một cách căn bản các vấn đề vì sản phẩm thay đổi liên tục, ít lặp lại. Vì thế, việc sử dụngcác công cụ quản lý chất lượng và chuẩn hoá quy trình tương đối khó. Ttuỳ theo từng vấn đề chất lượng mà nhóm đề xuất những cách thức cải tiến khác nhau. Trước tiên là phải khôi phục lại hình ảnh của Koda trong sự cảm nhận của khách hàng thông qua độ tin cậy trong giao hàng.Cải tiến sự tin cậy trong giao hàng ???Cải tiến tỉ lệ phế phẩm ???Cải tiến sự linh hoạt của sản phẩm ???Cải tiến sự tin cậy trong giao hàng
File đính kèm:
- dffs.ppt