Bài giảng Ngữ văn 8 - Phân tích tác phẩm Tiết 105: Thuế máu - Nguyễn Thị Chiến

I. CHIẾN TRANH VÀ "NGƯỜI BẢN XỨ"

Nhưng họ đã phải trả bằng một cái giá khá đắt cái vinh dự đột ngột ấy, vì để bảo vệ cho cái công lý và tự do mà chính họ không được hưởng một tí nào, họ đã phải đột ngột xa lìa vợ con, rời bỏ mảnh ruộng hoặc đàn cừu của họ, để vượt đại dương, đi phơi thây trên các bãi chiến trường châu Âu. Trong lức vượt biển, nhiều người bản xứ sau khi được mời chứng kiến cảnh kì diệu của trò biểu diễn khoa học về phóng ngư lôi(3), đã được xuống tận đáy biển để bảo vệ tổ quốc của các loài thuỷ quái. Một số khác đã bỏ xác tại những miền hoang vu thơ mộng vùng Ban-căng(4), lúc chết còn tự hỏi phải chăng nước mẹ muốn chiếm ngôi nguyên phi trong cung cấm vua Thổ,- chả thế sao lại đem nướng họ ở những miền xa xôi ấy? Một số khác nữa thì anh dũng đưa thân cho người ta tàn sát trên bờ sông Mác-nơ, hoặc trong bãi lầy miền Săm-pa-nhơ(5), để lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế(6) của các cấp chỉ huy và lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy của các ngài thống chế(7).

Cuối cùng , ở hậu phương, những người làm kiệt sức trong các xưởng thuốc súng ghê tởm, tuy không phải hít hơi ngạt của bọn "bô-sơ"(8), nhưng lại nhiễm phải những luồng khí độc đỏ ối của người Pháp; đằng nào cũng thế thôi, vì những kẻ khốn khổ ấy cũng đã khạc ra từng miếng phổi, chẳng khác gì hít phải hơi ngạt vậy.

Tổng cộng có bảy mươi vạn người bản xứ đã đặt chân lên đất Pháp; và trong số ấy, tám vạn người không bao giờ còn trông thấy mặt trời quê hương đất nước mình nữa.

Tổng cộng có bảy mươi vạn người bản xứ đã đặt chân lên đất Pháp; và trong số ấy,

 tám vạn người không bao giờ còn trông thấy mặt trời quê hương đất nước mình nữa

ppt23 trang | Chia sẻ: hienduc166 | Lượt xem: 369 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Ngữ văn 8 - Phân tích tác phẩm Tiết 105: Thuế máu - Nguyễn Thị Chiến, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút TẢI VỀ ở trên
bao giờ còn trông thấy mặt trời quê hương đất nước mình nữa.II. Chế độ lính tình nguyện. Một bạn đồng nghiệp nới với chúng tôi: Dân lao khổ bản xứ ở Đông Dương từ bao đời nay bị bóp nặn bằng đủ mọi thứ thuế khóa, sưu sai, tạp dịch, bằng cưỡng bức phải mua rượu và thuốc phiện theo lệnh quan trên, từ 1915 đến 1916 tới nay lại còn phải chịu thêm cái vạ mộ lính nữa. Những biến cố trong mấy năm gần đây là cái cớ để người ta tiến hành những cuộc lùng ráp lớn về nhân lực trên toàn cõi Đông Dương. Những người bị bắt đều bị nhốt vào trại lính với đủ thứ tên: lính khố đỏ, lính thợ chuyên nghiệp, lính thợ không chuyên nghiệp. Theo ý kiến của tất cả các cơ quan có thẩm quyền không thiên vị được giao cho sử dụng ở châu Âu “vật liệu biết nói” châu á, thì vật liệu này đã không đưa lại kết quả tương xứng với chi phí rất lớn về chuyên chở và bảo quản.Sau nữa, việc săn bắt thứ “vật liệu biết nói” đó, mà lúc bấy giờ người ta gọi là “chế độ lính tình nguyện” (danh từ mỉa mai một cách ghê tởm) đã gây ra những vụ nhũng lạm hết sức trắng trợn. Đây! Chế độ lính tình nguyện ấy đã được tiến hành như thế này: Vị “chúa tỉnh” mỗi viên công sứ ở Đông Dương quả là một vị “chúa tỉnh” ra lệnh cho bọn quan lại dưới quyền, trong một thời hạn nhất định phải nộp cho đủ một số người nhất định. Bằng cách nào, điều đó không quan trọng. Các quan cứ liệu mà xoay xở kiểu Đ thì các ông tướng ấy thạo hết chỗ nói, nhất là xoay xở làm tiền. Thoạt tiên, chúng tóm những người khỏe mạnh, nghèo khổ, những người này chỉ chịu chết thôi không còn kêu cứu được vào đâu được. Sau đó, chúng mới đòi đến con cái nhà giàu. Những ai cứng cổ thì chúng tìm ngay ra dịp để sinh chuyện với họ hoặc với gia đình họ, và nếu cần, thì giam cổ họ lại cho đến khi họ phỉ dứt khoát chọn lấy một trong hai con đường: “đi lính tình nguyện, hoặc xì tiền ra” . Những người bị tóm đi như thế còn hào hứng gì nữa với cái nghề cột vào cổ họ. Cho nên, bước chân vào trại lính là họ tìm mọi cơ hội để trốn thoát. Còn những người nào thấy không thể thoát khỏi số phận hẩm hưu, thì tìm cách tự làm cho mình nhiễm phải những bệnh nặng nhất, mà thông thường hơn cả là bệnh đau mắt toét chảy mủ, gây ra bằng cách xát vào mắt nhiều thứ chất độc, từ vôi sống đến mủ bệnh lậu. ấy thế mà trong một bản bố cáo với những người bị bắt lính, phủ toàn quyền Đông Dương, sau khi hứa hẹn ban phẩm hàm cho những lính sẽ còn sống sót và truy tặng những người hy sinh “cho Tổ quốc” đã trịnh trọng tuyên bố rằng:“Các bạn đã tấp nập đầu quân, các bạn đã không ngần ngại rời bỏ quê hương xiết bao trìu mến để người thì hiến xương máu của mình như lính khố đỏ, kẻ thì hiến dâng cánh tay lao động của mình như lính thợ”. Nếu quả thật người An Nam phấn khởi đi lính đến thế, tại sao lại có cảnh, tốp thì bị xích tay điệu về tỉnh lị, tốp thì trước khi xuống tàu, bị nhốt trong một trường trung học ở Sài Gòn, có lính Pháp canh gác, lưỡi lê tuốt trần, đạn lên lòng sẵn? Những cuộc biểu tình đổ máu ở Cao Miên, những vụ bạo động ở Sài Gòn, ở Biên Hòa và ở nhiều nơi khác nhau nữa, phải chăng là những biểu hiện của lòng sốt sắng đầu quân “tấp nập” và “không ngần ngại”? BỐ CỤC: 3 PHẦNTHUế MáUChiến tranh và "Người bản xứ"Chế độ lính tình nguyệnKết quả của sự hy sinhI. CHIếN TRANH Và "NGƯờI BảN Xứ”Trước năm 1914, họ chỉ là những tên da đen bẩn thỉu, những tên "An-nam-mit"(2) bẩn thỉu, giỏi lắm cũng chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị nhà ta. ấy thế mà cuộc chiến tranh vui chơi bùng nổ, thì lập tức họ biến thành những đứa "con yêu", những người "bạn hiền" của các quan cai trị phụ mẫu nhân hậu, thậm chí của cả các quan toàn quyền lớn, toàn quyền bé nữa. Đùng một cái họ (những người bản xứ) được phong cho cái danh hiệu tối cao là "chiến sĩ bảo vệ công lý và tự do". Nhưng họ đã phải trả bằng một cái giá khá đắt cái vinh dự đột ngột ấy, vì để bảo vệ cho cái công lý và tự do mà chính họ không được hưởng một tí nào, họ đã phải đột ngột xa lìa vợ con, rời bỏ mảnh ruộng hoặc đàn cừu của họ, để vượt đại dương, đi phơi thây trên các bãi chiến trường châu Âu. Trong lức vượt biển, nhiều người bản xứ sau khi được mời chứng kiến cảnh kì diệu của trò biểu diễn khoa học về phóng ngư lôi(3), đã được xuống tận đáy biển để bảo vệ tổ quốc của các loài thuỷ quái. Một số khác đã bỏ xác tại những miền hoang vu thơ mộng vùng Ban-căng(4), lúc chết còn tự hỏi phải chăng nước mẹ muốn chiếm ngôi nguyên phi trong cung cấm vui Thổ,- chả thế sao lại đem nướng họ ở những miền xa xôi ấy? Một số khác nữa thì anh dũng đưa thân cho người ta tàn sát trên bờ sông Mác-nơ, hoặc trong bãi lầy miền Săm-pa-nhơ(5), để lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế(6) của các cấp chỉ huy và lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy của các ngài thống chế(7).Cuối cùng, ở hậu phương, những người làm kiệt sức trong các xưởng thuốc súng ghê tởm, tuy không phải hít hơi ngạt của bọn "bô-sơ"(8), nhưng lại nhiễm phải những luồng khí độc đỏ ối của người Pháp; đằng nào cũng thế thôi, vì những kẻ khốn khổ ấy cũng đã khạc ra từng miếng phổi, chẳng khác gì hít phải hơi ngạt vậy.Tổng cộng có bảy mươi vạn người bản xứ đã đặt chân lên đất Pháp; và trong số ấy, tám vạn người không bao giờ còn trông thấy mặt trời quê hương đất nước mình nữa.I. CHIếN TRANH Và "NGƯờI BảN Xứ"Trước năm 1914, họ chỉ là những tên da đen bẩn thỉu, những tên "An-nam-mit"(2) bẩn thỉu, giỏi lắm cũng chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị nhà ta. ấy thế mà cuộc chiến tranh vui chơi bùng nổ, thì lập tức họ biến thành những đứa "con yêu", những người "bạn hiền" của các quan cai trị phụ mẫu nhân hậu, thậm chí của cả các quan toàn quyền lớn, toàn quyền bé nữa. Đùng một cái họ (những người bản xứ) được phong cho cái danh hiệu tối cao là "chiến sĩ bảo vệ công lý và tự do". "An-nam-mit"I. CHIếN TRANH Và "NGƯờI BảN Xứ"Trước năm 1914, họ chỉ là những tên da đen bẩn thỉu, những tên "An-nam-mit"(2) bẩn thỉu, giỏi lắm cũng chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị nhà ta. ấy thế mà cuộc chiến tranh vui chơi bùng nổ, thì lập tức họ biến thành những đứa "con yêu", những người "bạn hiền" của các quan cai trị phụ mẫu nhân hậu, thậm chí của cả các quan toàn quyền lớn, toàn quyền bé nữa. Đùng một cái họ (những người bản xứ) được phong cho cái danh hiệu tối cao là "chiến sĩ bảo vệ công lý và tự do". "An-nam-mit"I. CHIếN TRANH Và "NGƯờI BảN Xứ"Trước năm 1914, họ chỉ là những tên da đen bẩn thỉu, những tên "An-nam-mit"(2) bẩn thỉu, giỏi lắm cũng chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị nhà ta. ấy thế mà cuộc chiến tranh vui chơi bùng nổ, thì lập tức họ biến thành những đứa "con yêu", những người "bạn hiền" của các quan cai trị phụ mẫu nhân hậu, thậm chí của cả các quan toàn quyền lớn, toàn quyền bé nữa. Đùng một cái họ (những người bản xứ) được phong cho cái danh hiệu tối cao là "chiến sĩ bảo vệ công lý và tự do". I. CHIếN TRANH Và "NGƯờI BảN Xứ"Nhưng họ đã phải trả bằng một cái giá khá đắt cái vinh dự đột ngột ấy, vì để bảo vệ cho cái công lý và tự do mà chính họ không được hưởng một tí nào, họ đã phải đột ngột xa lìa vợ con, rời bỏ mảnh ruộng hoặc đàn cừu của họ, để vượt đại dương, đi phơi thây trên các bãi chiến trường châu Âu. Trong lức vượt biển, nhiều người bản xứ sau khi được mời chứng kiến cảnh kì diệu của trò biểu diễn khoa học về phóng ngư lôi(3), đã được xuống tận đáy biển để bảo vệ tổ quốc của các loài thuỷ quái. Một số khác đã bỏ xác tại những miền hoang vu thơ mộng vùng Ban-căng(4), lúc chết còn tự hỏi phải chăng nước mẹ muốn chiếm ngôi nguyên phi trong cung cấm vua Thổ,- chả thế sao lại đem nướng họ ở những miền xa xôi ấy? Một số khác nữa thì anh dũng đưa thân cho người ta tàn sát trên bờ sông Mác-nơ, hoặc trong bãi lầy miền Săm-pa-nhơ(5), để lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế(6) của các cấp chỉ huy và lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy của các ngài thống chế(7).Cuối cùng , ở hậu phương, những người làm kiệt sức trong các xưởng thuốc súng ghê tởm, tuy không phải hít hơi ngạt của bọn "bô-sơ"(8), nhưng lại nhiễm phải những luồng khí độc đỏ ối của người Pháp; đằng nào cũng thế thôi, vì những kẻ khốn khổ ấy cũng đã khạc ra từng miếng phổi, chẳng khác gì hít phải hơi ngạt vậy.Tổng cộng có bảy mươi vạn người bản xứ đã đặt chân lên đất Pháp; và trong số ấy, tám vạn người không bao giờ còn trông thấy mặt trời quê hương đất nước mình nữa.Tổng cộng có bảy mươi vạn người bản xứ đã đặt chân lên đất Pháp; và trong số ấy, tám vạn người không bao giờ còn trông thấy mặt trời quê hương đất nước mình nữa.giải ô chữ 12376541. Cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) được Nguyễn ái Quốc ví bằng cụm từ nào trong phần I của bài Thuế máu? (21 chữ)cuộcchiếntranhvuitươi2. Nguyễn ái Quốc còn có tên gọi là gì? (9 chữ cái)hồchíminh3. Khi cuộc chiến tranh phi nghĩa xảy ra những người dân thuộc địa lập tức biến thành gì của các quan cai trị, phụ mẫu nhân hậu? (6 chữ)conyêucácngàithốngch ế4. Những người dân thuộc địa đã lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy của ai? (14 chữ cái)5. Thực dân Pháp đã gọi người Việt Nam với thái độ khinh miệt bằng từ gì? (8 chữ)annammít6. Trong cuộc chiến tranh phi nghĩa đó tổng số có bao nhiêu người lính thuộc địa chết? (6 chữ)támvạn7. Những người dân thuộc địa đã lấy máu mình tưới lên vòng nguyệt quế của ai? (12 chữ)cáccấpchỉhuythuế máuMột số hình ảnh cuộc chiến tranh thế giới lần 1Nguyễn áI quốc – bản án chế độ thực dân pháp1,23Chúc các em học tốtKính Chúc các thầy cô giáo Sức khoẻ- hạnh phúcBài tập: Cõu1: “Bản ỏn chế độ thực dõn Phỏp” được viết bằng tiếng gỡ?A.Tiếng Trung B. Tiếng PhỏpC. Tiếng Việt D.Tiếng NgaCõu 2: Đoạn trớch Thuế mỏu nằm ở chương thứ mấy của Tỏc phẩm?A.Chương I B.Chương II C.Chương III D.Chương IVBACKCõu 3:Nguyờn nhõn chớnh của việc cỏc quan cai trị thực dõn thay đổi thỏi độ đối với người dõn thuộc địa là gỡ?A.Vỡ chớnh quyền thực dõn muốn thực hiện chớnh sỏch cai trị mớiB.Vỡ chớnh quyền thực dõn muốn giỳp đỡ người dõn thuộc địa cú một cuộc sống tốt hơnC.Vỡ chớnh quyền thực dõn muốn biến những người dõn thuộc địa thành tấm bia đỡ đạn cho chỳng trong cuộc chiến tranh phi nghĩa.D.Vỡ chớnh quyền thực dõn muốn những người dõn thuộc địa phải phục tựng họ tốt hơn.BACK

File đính kèm:

  • pptTiet_105_Thue_mau_Tiet_1.ppt