Báo cáo Chuyên đề: Vận dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy Ngữ văn THCS năm học 2010-2011

VẬN DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
TRONG GIẢNG DẠY NGỮ VĂN THCS

Ngày naycông nghệ thông tin chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống xã hội. Sự phát triển mạnh mẽ của CNTT đã làm thay đổi cuộc sống con người. Với máy vi tính CNTT đã trở nên ngày càng phổ biến trong giáo dục. CNTT được ứng dụng để giải quyết hầu hết các nhiệm vụ quản lý điều hành và giảng dạy trong nhà trường. Ứng dụng CNTT vào dạy học nói chung và dạy học môn Ngữ Văn nói riêng là một xu thế tất yếu. Tuy nhiên thực sự là hiệu quả dạy học với sự hỗ trợ của máy tính vẫn chưa được như những gì chúng ta mong muốn và đây là vấn đề mà thầy cô giáo chúng ta đang dần xây dựng tiết dạy hoàn hảo với máy tính, nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy.

 Trong xu thế dạy học ngày nay, thực hiện dạy học Ngữ văn theo phương pháp hiện đại, người ta nghĩ ngay đến việc ứng dụng công nghệ dạy học. Vậy công nghệ dạy học là gì? “Hiểu một cách tổng quát, công nghệ dạy học là những qui trình kĩ thuật trong dạy học. Kĩ thuật hiểu theo nghĩa công nghệ máy móc và thiết bị kĩ thuật đồng thời kĩ thuật cũng được hiểu là những chiến lược dạy học nhằm khởi động tối đa nội lực của người HS, giúp họ phát triển đạt tới giá trị chân, thiện, mĩ trong dạy học Ngữ văn.”

 

ppt21 trang | Chia sẻ: hienduc166 | Lượt xem: 755 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Chuyên đề: Vận dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy Ngữ văn THCS năm học 2010-2011, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút TẢI VỀ ở trên
tác phẩm, có thể vận dụng băng tư liệu, băng ngâm thơ, băng hình minh họa-Slide 4: đến các Slide tiếp theo:Là các nội dung tương ứng với từng phần trong nội dung bài dạy và tương ứng với từng phần trong thiết kế giảng dạy của giáo án.Trong các Slide này, GV có thể chèn các câu hỏi, bài tập nhóm để HS dễ quan sát và nắm các yêu cầu thực hành nhóm để cùng làm việc mà hình thành bài học.Slide n-1: Phần củng cố bài:GV có thể vận dụng việc củng cố bài bằng hình thức câu hỏi trắc nghiệm khách quan một cách thuận lợi trong Slide này. Hoặc có thể củng cố bài bằng sơ đồ mà không cần bảng phụ. Có thể củng cố bài bằng bài hát, băng hình minh họa (nếu có).Slide n: Phần dặn dò:GV dặn dò HS bằng Slide này.Với một bài Tiếng Việt & Làm văn:Slide tên bài.Các Slide bài học.Nội dung bài.Tư liệu hỗ trợ cho bài học: Bài tập mẫu, hình ảnh, âm thanh, các đề bài luyện tập, bảng biểu, sơ đồ để minh họa cho bài họcHệ thống bài luyện tậpSlide củng cố bài.Slide dặn dò.B2.2-Tiến hành soạn nội dung bài vào các Slide và chọn cách trình chiếu thích hợp.	B2.3- Yêu cầu chung cho việc chuẩn bị GAĐT bằng các Slide:	a- Yêu cầu chung:Vận dụng CNTT phải đúng lúc, đúng chỗ, bảo đảm đặc trưng bộ môn nhằm tạo hiệu quả cao cho giờ học. GAĐT không thể thay thế giáo án truyền thống mà đó chỉ là phương tiện hỗ trợ cho GV trong việc thực hiện các phương pháp dạy học theo hướng đổi mới phương pháp, các khâu của quá trình dạy học.GAĐT giúp GV tiết kiệm thời gian ghi bảng, góp phần thể hiện đồ dùng dạy học , thay thế hệ thống bảng phụ cồng kềnh cho GV, trình chiếu các tư liệu dạy học mà GV dùng để minh hoạ cho bài học.Không quá lạm dụng CNTT vào giờ dạy mà làm mất chất Văn thật sự của một giờ Ngữ văn.	b-Yêu cầu với việc thiết kế các Slide:Nền Slide: thường sử dụng màu sáng nhạt, không nên sử dụng màu quá tương phản với các đối tượng trình bày. Nên sử dụng nền trắng, màu chữ đen hoặc xanh đậm, các đề mục lớn có thể sử dụng màu chữ đỏ tác động vào mắt HS. Nếu sử dụng nền xanh thẫm thì phải dùng chữ màu trắng thì chữ mới rõ khi chiếu các Slide này qua máy Projector.Font chữ và màu chữ: Nên dùng một loại font chữ phổ biến, chân phương, đồng thời sử dụng cách viết đậm, nghiêng, hoa, chữ thường một cách hợp lí. Cỡ chữ thường từ 24 trở nên, phối hợp nhiều nhất là ba màu chữ để làm rõ các nội dung trọng tâm khác nhau. Sử dụng các bacgroud (khung, nền) thống nhất trong toàn bộ các Slide.	Khai thác và sử dụng tiện ích Powerpoint là hết sức thuận lợi trong giảng dạy Ngữ văn nhưng phải phù hợp với nội dung bài dạy và không nên quá lạm dụng. Do đó, tránh tạo các kí hiệu với các hoạt hình quá sinh động, hoặc chèn các âm thanh quá lạ chỉ có mỗi mục đích thu hút sự tò mò của HS, chỉ nhằm gây cườiB2.4- Một số ưu, nhược khi giảng dạy bằng GAĐT :	A– Ưu điểm:	Với bài Đọc – Hiểu :Bài khái quát một giai đoạn văn học : có thể vận dụng CNTT sơ đồ hóa nội dung kiến thức của bài học, khái quát về các đặc điểm chính, về tiến trình văn học, minh họa tác giả, tác phẩm bằng hình ảnh, bằng các đoạn băng hìnhBài khái quát một tác gia : giới thiệu chân dung, gia đình, quê hương, minh họa bằng việc tóm tắt, ngâm, tranh, phim minh họa tác phẩm tiêu biểu	Với bài Đọc – hiểu văn bản :Có thể sử dụng giới thiệu hình ảnh tư liệu về tác giả, tác phẩm mà không phải mang theo tranh ảnh, tác phẩm cồng kềnh. Hoặc ngâm, đọc, tóm tắt tác phẩm, nghe tác phẩm phổ nhạc, hay xem một đoạn tác phẩm (có ấn tượng) được chuyển thể thành kịch bản phim Vận dụng tính năng của CNTT, sẽ giúp GV hệ thống nhân vật, tóm tắt cốt truyện theo mô hình hoặc minh họa nội dung nào đó bằng hình ảnh, lời kể ghi âmlàm cho giờ học thêm sinh động , không gây sự nhàm chán. Với các văn bản ngắn, các Slide có thể dùng để chép nguyên văn bản cho HS tiện theo dõi. Có thể sử dụng các băng tư liệu để minh họa tác phẩm bằng giọng đọc, giọng ngâm, lời hát của các nghệ sĩ để bài học thêm sinh động. Với các tác phẩm đã chuyển thể thành kịch bản phim, có thể sử dụng băng hình phim để tóm tắt tác phẩm, minh họa các đoạn trích được học...	Việc đưa tư liệu minh họa cho bài Đọc – hiểu vừa tích hợp giảng dạy Ngữ văn học với các hình thức khác vừa giúp HS hiểu kĩ, sâu về văn bản được học, giúp HS tiếp cận với cách học hiện đại trong nhà trường phổ thông.	*Đặc biệt: GAĐT giúp GV trình bày bài giảng sinh động hơn, dễ thích nghi với sự thay đổi của khoa học hiện đại.- Sử dụng GAĐT, GV có thể trình chiếu toàn bộ các đề bài tập nhóm, các câu hỏi trắc nghiệm khách quan khi kiểm tra đầu hoặc cuối giờ cho cả lớp tiện theo dõi. Việc sơ đồ hoá toàn bộ kiến thức của bài học trên các Slide bài cũng hết sức thuận tiện giúp GV không phải dùng bảng phụ. Soạn một GAĐT có thể sử dụng ở nhiều lớp, nhiều năm với điều kiện có bổ sung, rút kinh nghiệm, đổi mớiGAĐT có thể được xem là mộït bộ đồ dùng dạy học hết sức có ích.- GAĐT còn giúp GV tiện lợi để trình bày câu hỏi trắc nghiệm khách quan khi kiểm tra bài cũ, phân tích văn bản, củng cố bài họcB- Nhược điểm:Vận dụng CNTT bên cạnh những mặt mạnh vẫn còn những vấn đề đáng bàn :+ Máy móc chưa thật sự phổ biến ở các trường vùng sâu, vùng xa.+ Trình độ Tin học và khả năng sử dụng máy ở GV còn hạn chế.+ Với các trường ở trung tâm, số lượng máy móc cũng không nhiều.+ Đôi khi GV đã chuẩn bị rất kĩ cho tiết dạy nhưng không thể lên lớp được vì tình trạng cúp điện.+ Nếu quá lạm dụng CNTT, tiết học sẽ biến thành một giờ biểu diễn máy mà không có hiệu quả giảng dạy.+ Việc sử dụng các băng hình minh họa cho nội dung tác phẩm bằng các kịch bản phim nếu không khéo léo sẽ làm mất khả năng hình dung, tưởng tượng về nhân vật văn học của HS, HS sẽ chỉ có ấn tượng về nhân vật trong phim mà thôi.+Nếu GV sử dụng quá nhiều tranh minh họa cho tiết dạy, đôi khi làm mất mục đích chính của giờ dạy.Một số vấn đề cần lưu ý khi giảng dạy bằng GAĐT :- Việc chuẩn bị và kiểm tra trước giờ dạy là hết sức cần thiết vì GV phải lường trước mọi tình huống có thể xảy ra với máy móc : sự tương thích giữa máy GV và máy trường , sự tương thích giữa máy vi tính và Projector. Việc trình chiếu qua các Slide bài dạy để kiểm tra là rất quan trọng , đặc biệt là các giáo án có sử dụng hình ảnh, âm thanh, các đoạn băng hình minh hoạ...buộc GV phải kiểm tra trước các hiệu ứng của các Slide này. Nên sử dụng cả bảng đen trong giờ dạy để GV ghi những nét chính về bài học. Ngoài sự tương tác giữa HS với màn hình, GV phải để ý đến mối quan hệ giữa GV và HS qua hệ thống bài tập, câu hỏi nêu vấn đề... cũng như giữa HS – HS khi thảo luận nhóm. Đặc biệt, GV phải lưu ý đến mối quan hệ mật thiết giữa nội dung trình chiếu với giáo án văn bản nhằm bảo đảm tính trực quan mà vẫn phát huy được tính tích cực của HS và kế hoạch lên lớp của tiết dạy. Tránh tình trạng biến giờ Ngữ văn thành giờ trình chiếu phim ảnh, tư liệu. Đặc biệt, đối với giờ Đọc hiểu nếu sử dụng phim ảnh quá lạm dụng sẽ làm HS có ấn tựơng về nhân vật trong phim mà không tự hình dung, tưởng tựơng về nhân vật Văn học. Việc giảng dạy bằng GAĐT phải thật sự «ăn khớp» giữa lời giảng của GV và nội dung trình chiếu trên các Slide, tránh tình trạng «lời GV một đằng, nội dung bài chạy ra một nẻo». Đặc biệt, GAĐT phải là sản phẩm của chính mình, tự mình thiết kế, không sử dụng các giáo án có sẵn trên mạng. 	Với một tiết Đọc – hiểu văn học Việt Nam hiện đại cần thận trọng ( chữ dùng của TS. Đỗ Ngọc Thống) trong việc vận dụng CNTT. Việc ứng dụng CNTT vào dạy học cần kết hợp được một cách hài hòa giữa ý tưởng thiết kế nội dung và kĩ thuật vi tính. Một mặt phải bảo đảm đặc trưng bộ môn, chuyển tải được các đơn vị kiến thức cơ bản cần thiết, mặt khác cần bảo đảm tính thẩm mĩ, khoa học và thuận tiện trong việc sử dụng. Đối với bộ môn Ngữ văn, việc ứng dụng CNTT cần nghiên cứu một cách kĩ lưỡng hơn. Cần đặt ra nhiều câu hỏi để trả lời trước khi vận dụng : ứng dụng những gì ? Ứng dụng vào bài nào ? Khi nào ? Và bằng cách nào ?... ”	C- Kết luận:	Công nghệ thông tin nói chung, sự hỗ trợ của Powerpoint nói riêng trong giảng dạy sẽ giúp GV tiết kiệm được nhiều thời gian, GV sử dụng tốt các tư liệu minh họa sẽ làm HS học tập hứng thú hơn. Đồng thời, Powerpoint còn giúp GV có thể hướng dẫn HS tiếp cận được một lượng kiến thức phong phú, sâu rộng mà thật sinh động. Từ đó, góp phần đổi mới PPDH để nâng cao chất lượng giảng dạy trong nhà trường phổ thông. “	Song các phương tiện hiện đại dù tiện lợi sđến đâu cũng không thể thay thế hoàn toàn vai trò chủ động, sáng tạo của GV trong việc tổ chức các họat động nhận thức của HS .Đặc biệt,việc thiết kế nội dung trình diễn bằng Powerpoint tuy không quá khó đối với GV nhưng lại đòi hỏi một sự chuẩn bị công phu và mất nhiều thời gian.	Vì vậy,việc kết hợp các ưu thế của các yếu tố mới, của khoa học công nghệ vào giảng dạy là cần thiết nhưng phải kết hợp linh họat với phương pháp dạy học truyền thống sao cho phù hợp với điều kiện cụ thể, có hiệu quả và phát huy tốt tính tích cực, độc lập học tập của HS là giải pháp tốt nhất. "	Không có PPDH nào là tối ưu, không phải cứ vận dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy đã là đổi mới PPDH, thành công trong giờ dạy là nghệ thuật sư phạm của GV, vận dụng CNTT là một hướng đi trong xu thế đổi mới hiện nay mà GV nên vận dụng, điều này không hoàn toàn bắt buộc song chính nó sẽ làm mỗi giờ lên lớp của chúng ta phong phú hơn bởi chúng ta đang làm mới chính mình.	Đổi mới PPDH Ngữ văn là một quá trình đòi hỏi người thầy phải có nhận thức đúng: đổi mới từ từ, từng bước, không nóng vội mà thay đổi hoàn toàn, đổi mới trong việc kết hợp cả truyền thống và hiện đại. Mỗi bài, mỗi giờ lên lớp đổi mới một phần, mỗi chương đổi mới một bài nhằm bảo đảm 3 tiêu chí của một giờ học: dân chủ, tự do & hoạt động.	Xin cám ơn quí thầy cô đã lắng nghe!. 	Kính chúc thầy cô thành công trong công cuộc đổi mới PPDH của chính mình!.PHẦN MINH HOẠTiết 30: Văn bản: “Bạn đến chơi nhà” (Lớp 7)Tiết 30: Chân dung các nhà vănKim LânNguyễn Đình ThiNguyễn DuyNguyễn Khoa ĐiềmNguyễn KhuyếnThanh HảiThế LữTô HoàiTố HữuXuân QuuỳnhHuy CậnNguyễn Minh ChâuXin ch©n thµnh c¶m ¬n c¸c ®ång chÝ ®· ®Õn dù buæi sinh ho¹t chuyªn m«n cômLÇn thø 2 n¨m häc: 2010 -2011KÝnh chóc c¸c ®ång chÝ & gia ®×nhM¹nh kháe - H¹nh phóc

File đính kèm:

  • pptVan_dung_CNTT_trong_giang_day_Ngu_Van_THCS.ppt
Bài giảng liên quan