Biến đổi khí hậu toàn cầu và nguy cơ xuất hiện "chủ nghĩa thực dân" kiểu mới

Biến ĐỔi KHí Hậu tOàn cầu Là Vấn Đề Được Đề cậP trên cÁc DiỄn Đàn Quốc tế từ Vài

tHậP Kỷ QuA Và Sự nónG Lên cỦA KHí Hậu Là BiỂu Hiện Được nói Đến nHiều nHất. tuY

nHiên, Lần Đầu tiên, trOnG BÁO cÁO 2007, ỦY BAn Liên cHínH PHỦ Về Biến ĐỔi KHí Hậu

iPcc Mới tHừA nHận Sự nónG Lên cỦA KHí Hậu Là Vấn Đề KHÔnG còn PHẢi nGHi nGờ

(unEQuiVOcAL) Gì nữA. Mặc DÙ VậY, cũnG cHưA có BÁO cÁO nàO cỦA iPcc cHO rằnG

Biến ĐỔi KHí Hậu tOàn cầu Là Hệ QuẢ tất Yếu cỦA Sự PHÁt triỂn KinH tế tHời Hậu Hiện

Đại, GiAi ĐOạn Mà Sự PHân Dị Giàu nGHèO cũnG nHư Sự PHân Dị Về LượnG KHí nHà KínH

PHÁt tHẢi GiữA cÁc Quốc GiA ĐAnG GiA tănG. trOnG KHi cÁc DiỄn Đàn Về PHÁt triỂn

Bền VữnG Lại LuÔn nói Về MÔ HìnH “cÙnG tHắnG” (Win-Win) tHì cũnG cHưA tHấY iPcc

nói Về nGuY cơ PHân Dị Được - Mất GiữA cÁc Quốc GiA cÔnG nGHiệP PHÁt triỂn Và

cÁc Quốc GiA ĐAnG PHÁt triỂn trOnG GiẢM tHiỂu PHÁt tHẢi KHí nHà KínH.

pdf3 trang | Chia sẻ: gaobeo18 | Lượt xem: 1180 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Biến đổi khí hậu toàn cầu và nguy cơ xuất hiện "chủ nghĩa thực dân" kiểu mới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút TẢI VỀ ở trên
Biến ĐỔi KHí Hậu tOàn cầu Là Vấn Đề Được Đề cậP trên cÁc DiỄn Đàn Quốc tế từ Vài 
tHậP Kỷ QuA Và Sự nónG Lên cỦA KHí Hậu Là BiỂu Hiện Được nói Đến nHiều nHất. tuY 
nHiên, Lần Đầu tiên, trOnG BÁO cÁO 2007, ỦY BAn Liên cHínH PHỦ Về Biến ĐỔi KHí Hậu 
iPcc Mới tHừA nHận Sự nónG Lên cỦA KHí Hậu Là Vấn Đề KHÔnG còn PHẢi nGHi nGờ 
(unEQuiVOcAL) Gì nữA. Mặc DÙ VậY, cũnG cHưA có BÁO cÁO nàO cỦA iPcc cHO rằnG 
Biến ĐỔi KHí Hậu tOàn cầu Là Hệ QuẢ tất Yếu cỦA Sự PHÁt triỂn KinH tế tHời Hậu Hiện 
Đại, GiAi ĐOạn Mà Sự PHân Dị Giàu nGHèO cũnG nHư Sự PHân Dị Về LượnG KHí nHà KínH 
PHÁt tHẢi GiữA cÁc Quốc GiA ĐAnG GiA tănG. trOnG KHi cÁc DiỄn Đàn Về PHÁt triỂn 
Bền VữnG Lại LuÔn nói Về MÔ HìnH “cÙnG tHắnG” (Win-Win) tHì cũnG cHưA tHấY iPcc 
nói Về nGuY cơ PHân Dị Được - Mất GiữA cÁc Quốc GiA cÔnG nGHiệP PHÁt triỂn Và 
cÁc Quốc GiA ĐAnG PHÁt triỂn trOnG GiẢM tHiỂu PHÁt tHẢi KHí nHà KínH.
cộng đồng quốc tế đã có nhiều nỗ 
lực để giảm thiểu tác động của biến 
đổi khí hậu toàn cầu và unFccc 
có hiệu lực từ tháng 3/1994, là một 
biểu hiện. iPcc là diễn đàn quan 
trọng trong đánh giá, ứng phó và 
thích nghi với tác động của biến 
đổi khí hậu toàn cầu. Báo cáo của 
nhóm công tác iii thuộc iPcc, 2007 
thừa nhận, với các chính sách giảm 
thiểu tác động của biến đổi khí hậu 
hiện nay và với các hoạt động liên 
quan đến phát triển bền vững thì khí 
nhà kính sẽ còn tiếp tục tăng trong 
vài thập kỷ tới. nghị định thư Kyoto 
được phê chuẩn năm 1997, có hiệu 
lực năm 2005 và đã sắp hết hiệu lực 
nhưng vẫn còn tồn tại hàng loạt bất 
đồng giữa các quốc gia, đặc biệt là 
giữa các quốc gia có nền công nghiệp 
phát triển và quốc gia đang phát 
triển. tính đến tháng giêng 2007 đã 
có 168 quốc gia và cộng đồng kinh 
tế châu âu đã ký vào nghị định thư 
này. theo iPcc, 3/4 lượng cO2 phát 
thải vào khí quyển là do việc sử dụng 
nhiên liệu hóa thạch, phần còn lại 
là do việc chặt phá rừng. theo nghị 
định thư Kyoto, đến 2012, lượng khí 
nhà kính phát thải vào khí quyển 
phải giảm đi 5.2% so với mức phát 
thải năm 1990. trên thực tế, chỉ 
riêng Hoa Kỳ và các quốc gia thuộc 
cộng đồng châu âu, với dân số 
chiếm 10% dân số toàn cầu, đã thải 
vào khí quyển 45% tổng lượng cO2 
toàn cầu (Heidi Bachram, climate 
Fraud and carbon colonialism: the 
new trade in Greenhouse Gases. 
capitalism nature Socialism, Vol 15, 
no. 12/2004). 
theo quan điểm của iPcc (Báo cáo 
2007) sức mạnh của nghị định thư 
nằm ở điều khoản về cơ chế thị 
Biến ĐỔi KHí Hậu tOàn cầu 
và nguy cơ xuất hiện
"chủ nghĩa thực dân" kiểu mới
Biến ĐỔi KHí Hậu
>> PGS.tS PHạM Văn cự
26 Bản tin Đại học Quốc gia Hà nội
Biến ĐỔi KHí Hậu
trường trong thương mại phát thải 
khí nhà kính. chính cơ chế mang 
tính khích lệ sự tái phân bố chỉ tiêu 
(quota) phát thải này lại hàm chứa 
nhiều thách thức và một trong số các 
thách thức đó là nhiều nền kinh tế 
phát thải khí nhà kính lớn nhất vẫn 
chưa phê chuẩn nghị định thư Kyoto 
(Báo cáo của nhóm công tác iii iPcc). 
Với bối cảnh như vậy liệu có nên hiểu 
là đối với từng quốc gia biến đổi khí 
hậu tuy mang tính toàn cầu nhưng 
lợi ích thì lại vẫn mang tính quốc gia. 
Và có một câu hỏi cần được đặt ra: 
Liệu có nguy cơ xuất hiện chủ nghĩa 
thực dân mới trong việc giảm thiểu 
lượng khí nhà kính do con người thải 
vào khí quyển? Hãy xem xét một vài 
khía cạnh của các nỗ lực giảm thiểu 
và ứng phó với biến đổi khí hậu của 
các quốc gia.
Khía cạnh thứ nhất: thông qua cơ 
chế phát triển sạch cDM (clean 
Development Mechanism). chương 
trình cDM, các nước có lượng khí 
nhà kính giảm thiểu sẽ được cấp 
chứng chỉ xác nhận giảm phát thải 
(certified Emission reduction cEr) 
hay còn được gọi là chứng chỉ carbon. 
Một khi có được cEr, nước này có 
thể chuyển nhượng quyền phát thải 
cho các nước khác để nhận được 
một hệ quả kép. Đó là có thu nhập 
từ việc chuyển nhượng cEr và thực 
hiện được Phát triển sạch, phần nào 
đồng nghĩa với Phát triển bền vững. 
có thể thấy ngay quyền phát thải đã 
trở thành một loại hình tài nguyên 
mới, hàm chứa nhiều ý nghĩa xã hội 
hơn bất cứ tài nguyên nào. Để tăng 
nguồn tài chính của mình, các nước 
kém phát triển hơn sẽ phải bán tài 
nguyên cho các nước phát triển hơn. 
các nước tiêu thụ nhiều dầu nhất 
thế giới như Mỹ (20.6 triệu thùng/
ngày), trung Quốc (7.6 triệu thùng/
ngày) và nhật Bản (5.2 triệu thùng/
ngày) chắc chắn thuộc nhóm phát 
thải lớn nhất và họ có nhu cầu mua 
tài nguyên phát thải của các nước 
khác, đặc biệt từ các nước có nền 
công nghiệp kém phát triển. câu hỏi 
đặt ra là: Bao giờ thì tài nguyên đặc 
biệt này ở các nước nghèo sẽ cạn kiệt 
trước khi họ đạt được mục tiêu phát 
triển bền vững?
Khía cạnh thứ hai: Đó là khuynh 
hướng xuất khẩu công nghệ “kém 
sạch”, thậm chí cộng nghệ ô nhiễm 
sang các nước nghèo và nhập khẩu 
sản phẩm tiêu dùng được sản xuất tại 
các nước đang phát triển. rất nhiều 
nước đang phát triển lấy xuất khẩu 
làm động lực kinh tế trong giai đoạn 
đầu. Hiện tượng tràn ngập hàng 
trung Quốc trên thế giới là một minh 
chứng. các nước đang phát triển thì 
lại có nhu cầu nhập khẩu công nghệ 
từ các nước giàu không loại trừ công 
nghệ gây ô nhiễm như dây chuyền 
lắp ráp xe hơi với chuẩn phát thải 
đã lỗi thời, như các công nghệ khai 
khoáng đã ngừng sử dụng ở các 
nước giàu... Xuất khẩu rác thải từ các 
nước giàu sang các nước đang phát 
triển cũng là một khuynh hướng mà 
cộng đồng quốc tế đã cảnh báo.
Khía cạnh thứ ba: Khuynh hướng 
phát triển nhiên liệu sinh học 
(biofuel) là loại nhiên liệu sử dụng 
ngũ cốc làm nguyên liệu. các nước 
giàu, đi đầu là Mỹ, đang nỗ lực tìm 
cách thay thế nhiên liệu hóa thạch 
bằng nhiên liệu sinh học. chỉ riêng 
năm 2007, diện tích ngô ở Mỹ đã 
đạt trên 37 triệu ha, tăng 19% so 
với 2006. tuy nhiên, xuất phát từ lợi 
ích kinh tế, lượng ethanol sản xuất từ 
ngũ cốc của Mỹ được dùng để xuất 
khẩu sang châu âu là chính, nơi có 
giá cao hơn ở Mỹ. Mặt khác của vấn 
đề ở chỗ là tại nhiều quốc gia nghèo, 
đặc biệt ở châu Phi, nạn đói vẫn đang 
hoành hành, thì ngũ cốc ở các nước 
giàu có thể lại được dùng để sản xuất 
ethanol chạy xe hơi. trong khi đó, vài 
thập kỷ trở lại đây chưa bao giờ có xu 
hướng giảm giá lương thực. trong 
khi đó trên các diễn đàn về biến đổi 
toàn cầu người ta nói rất nhiều đến 
tác động của biến đổi khí hậu đến 
nguy cơ nghèo đói hoặc tái nghèo 
của nhiều quốc gia. Liên Hiệp Quốc 
còn quan ngại là Mục tiêu thiên niên 
kỷ sẽ không đạt được do tác động 
của biến đổi khí hậu. câu hỏi đặt 
ra là: trong nỗ lực giảm thiểu phát 
thải khí nhà kính của toàn thế giới 
thì nỗ lực sản xuất nhiên liệu sạch ở 
các nước già̀u và nỗ lực xóa đói giảm 
nghèo ở các quốc gia nghèo liệu có 
27Số 219 - 2009
thể song hành được với nhau không?
trong bối cảnh của biến đổi khí hậu, 
iPcc cũng nêu nguyên tắc đồng phát 
triển (co-development) như một trong 
các giải pháp nhằm đạt sự cân bằng giữa 
các nước phát tiển và các nước đang 
phát triển để đảm bảo phát triển bền 
vững (Payne Anthony. 2005, the Global 
Politics of unequal Development, new 
York, Palgrave Macmillan). tuy nhiên, 
trên thực tế, để đạt được trình độ phát 
triển như ngày nay, các nước phát triển 
đã trải qua ba giai đoạn: 1) nửa sau thế 
kỷ 19 – đầu thế kỷ 20 là giai đoạn cách 
mạng công nghiệp với sự tăng trưởng 
hoang dã (wild growth), 2) từ những 
năm 70 đến nay là giai đoạn thiết lập 
phúc lợi và 3) từ nhưng năm 70 trở lại 
đây là giai đoạn tăng sự quan tâm đên 
môi trường. 
Ý tưởng cho rằng việc biến đổi toàn 
cầu bao gồm toàn cầu hóa kinh tế và 
biến đổi khí hậu đang tạo ra “người 
thắng” (winners) “kẻ thua” (losers) là 
lẽ tự nhiên và không tránh khỏi đang 
được chấp nhận rộng rãi. theo Kaye 
(Kaye, H. L. 1997. the social meaning 
of modern biology. new, Brunswick, nJ: 
transaction Publishers), Mác là người 
đầu tiên cho rằng thuyết tiến hóa của 
Darwin phản á́nh mạnh mẽ quan hệ 
cạnh tranh tư sản vào tự nhiên. cũng 
theo Kaye trong tài liệu đã dẫn, Mác 
cũng phê phán những người theo 
thuyết Darwin xã hội (Social Darwinism) 
đã sử dụng học thuyết tiến hóa của 
Darwin như trụ cột về tư tưởng học để 
bao biện cho sự cạnh tranh tồn tại trong 
chủ nghĩa tư bản. có những người khác 
cũng cho rằng sự hình thành “người 
thắng”, “kẻ thua” có nguồn gốc xã hội 
và chính trị và hệ quả tiến hóa hoặc của 
các quá trình tự nhiên hoặc của bàn tay 
vô hình trong thị trường tự do (Karen 
L. O’Brien and robin M. Leichenko, 
Annals of the Association of American 
Geographers, Volume 93, issue 1 
March 2003, pages 89 - 103). Liệu sự 
phê phán của Mác như đã nói ở trên có 
còn giá trị trong bối cảnh biến đổi khí 
hậu hiện nay không? Liệu với những gì 
đang diễn ra trong cuộc vận động thiểu 
phát thải khí nhà kính vào khí quyển thì 
sự sử dụng sức mạnh kinh tế để giảm 
thiểu ô nhiễm cho quốc gia của mình, 
thôn tính quyền phát thải của các nước 
nghèo hơn có thể sẽ làm xuất hiện chủ 
nghĩa thực dân mới trong phát thải hay 
không?
Biến ĐỔi KHí Hậu
28 Bản tin Đại học Quốc gia Hà nội

File đính kèm:

  • pdf219_page26to28.pdf
Bài giảng liên quan