Các nhà văn quốc ngữ tiền phong (Phần 1)

Những nhà văn quốc ngữ tiên phong là những người đã dùng chữ quốc ngữ

để phổ biến văn chương, học thuật trước tiên mà cũng là những người hô

hào truyền bá chữ quốc ngữ đến đại chúng vào thời kỳ sơ khai.

Những nhà văn tiền phong ấy là Trương Vĩnh Ký, Hình Tịnh Của, Trương

Minh Ký, đã sáng tác văn chương, đẩy mạnh việc truyền bá chữ quốc ngữ.

Trong đó Trương Vĩnh Ký soạn và cho in ra Chuyện Đời xưa năm 1867, còn

Huình Tịnh Của soạn quyển Đại Nam Quốc Âm Tự Vị, in năm 1895. Họ đã

là những nhà văn lớn, gây thành những phong trào tiên phong sau nầy.

pdf22 trang | Chia sẻ: baobinh26 | Lượt xem: 611 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các nhà văn quốc ngữ tiền phong (Phần 1), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút TẢI VỀ ở trên
m viên, chẳng bằng nằm riêng) 
Đính vận cả hai bài ca: 
Thất nội cơ thô xú 
Vãn phạn giảm sổ khẩu 
Dạ ngọa bất phúc thủ 
Chỉ tai tam tẩu ngôn! 
Sở dĩ thọ trường cửu. 
( Trích Miscellanées) 
c) Trương Minh Ký (1855-1900) 
Trương Minh Ký có biệt hiệu là Thế Tải, ông sanh ngày 23-10-1855 tại Gia 
Định, là học trò của Trương Vĩnh Ký. Ông thông Hán và giỏi Pháp văn, làm 
thông ngôn cho nhà cầm quyền Pháp, cộng tác với Trương Vĩnh Ký trên tờ 
Gia Định báo, Thông Loại Khóa Trình cũng như viết sách dạy Pháp văn. 
Trương Minh Ký không được người ta chú ý nhưng vừa là môn đệ, vừa là 
người cộng tác thân cận với Trương Vĩnh Ký, xét qua văn nghiệp, cũng 
xứng đáng dành cho ông một chỗ đứng trong các nhà văn tiền phong chữ 
quốc ngữ. 
Ông hành văn cũng bình dân, mộc mạc như Trương Vĩnh Ký và Huình Tịnh 
Của, chuyên dịch chữ Hán ra quốc ngữ và sử dụng văn vần nhiều hơn văn 
xuôi. 
Ông có được ân thưởng: 
- Huy chương Hàn Lâm Viện Pháp quốc (Officier d"académie) 
- Kim Khánh bội tinh của Nam triều và Hoàng gia Cam Bốt. 
Ông mất vào ngày 11-8-1900, mộ ông được chôn cất trong nghĩa trang gia 
đình, nơi Trương Gia Từ nằm trên đường Lý Thường Kiệt, Gò Vấp, Gia 
Định ( Gần Tổng Y Viện Công Hòa). 
Văn nghiệp của ông gồm có: 
- Phong thần bá áp khảo 
- Ấu học khải phong 
- Trị gia cách ngôn 
- Cổ văn chơn bửu 
- Pháp học tân lương (Cours gradué de Langue-Francaise) 1895 
- Recueil de Brochures sur l"histoire de la littérature Annamite, relié 1891 
Trích văn: 
GÀ ĐẺ TRỨNG VÀNG 
Tham thì thâm. Tôi muốn dẫn chứng lời nầy là thuật chuyện con gà thường 
bửa đẻ ra một trứng vàng, củ gà tưởng trong mình con gà có một cái kho 
vàng. Nó đem làm thịt đi, mổ ra coi thấy cũng giống như gà thường vậy. Ấy 
bởi bổn thân làm cho mình phải mất của quí trọng của mình. 
(Gia Định báo số 18 ngày 6-5-1882) 
NỮ NHI CA 
Ăn vóc học hay 
Một ngày một lớn 
Bớt giỡn bớt chơi 
Cười cười nói nói 
Khoe giỏi khoe khôn 
So hơn tính thiệt 
Cướp việc tranh công 
Ăn chùng nói vụng 
Làm nũng khóc la 
Nghịch cha nghịch mẹ 
Hiếp trẻ đánh em 
Nhem thèm sắp nhỏ 
Điều có nói không 
Đòi bồng đòi ẫm 
Đi tắm không kỳ 
Mặt lỳ mày lợm 
Đóng khớm, đóng hờm 
Đổ cơm đổ cháo 
Vọc gạo giỡn tiền 
Bông kiềng vòng chuỗi 
Đòi cổi đòi đeo 
Leo trèo nhảy múa 
Chưỡi rủa rầy la 
Gần xa nghe tiếng 
Làm biếng ngủ ngày 
Từ rày bỏ hết 
Có nết có na 
Thờ cha kính mẹ 
Thương trẻ mến em 
Dưới êm trên thuận 
Đi đứng dịu dàng 
Ra đàng tề chỉnh 
Cung kính khiêm nhường 
Kẻ thương người mến 
Ai đến hỏi chào 
Có sao nói vậy 
Mắt thấy tai nghe 
Còn e lầm lỗi 
Phước tội chẳng chừng 
Nên đừng nói bậy 
Kẻ vạy người ngay 
Mặc ai phải chẳng 
Ngay thẳng thiệt thà 
Việc nhà lần học 
Kẻ tóc chơn tơ 
Ngày giờ phải tiếc 
Cứ việc làm ăn 
Cho bằng chúng bạn 
Việc bán việc buôn 
Học khôn học khéo 
Thêu kiểu vá may 
Hàng ngày ra sức 
Bánh mức nem bì 
Món chi cũng giỏi 
Mới gọi gái lành 
Rạng danh thục nữ 
Quân tử hão cừu 
Danh lưu hậu thế 
Dạy để mấy lời 
Phen người dồi ngọc 
Trương Minh Ký làm 
(Miscelanées số 8 Decembre 1888 trang 15) 
CHỨC CẨM HỒI VĂN 
Chàng vâng hoàng chiếu thú an biên, 
Đưa tới Hà kiều rẻ thảm riêng, 
Ngậm thở ngùi than ngừng giọt lụy, 
Ân tình xa cách chớ hề quên. 
* 
Đi ra tin đứt có dè sao! 
Màn trướng đầu xuân ấm đặng nào ! 
Dưới bụi quỳnh diêu rêu biếc láng, 
San hô trong trướng bụi hồng bao. 
* 
Nỗi lìa thuở ấy bắt kinh hoàng, 
Đem giũ lòng đâu gặp lại chàng; 
Lòng ước làm trăng ngoài biển cả, 
Hoặc làm mây nước chói cao san. 
* 
Mây móc hàng năm thấy mặt chồng, 
Hàng năm trăng biển giọi soi cùng, 
Bay đi bay lại cho gần được, 
Muôn dặm thấy nhau kẻo đợi trông. 
* 
Đường sá vơi vơi cách trở thay ! 
Hờn chàng ngoài ải ở lâu ngày; 
Thuở đi đưa đó lau vàng lá, 
Ai ngỡ hoa mai nở bấy chầy. 
* 
Trăm hoa rộn rực sớm chào xuân, 
Ai đó mà xuân giục kẻ than, 
Đầy đất dương sà vì đó vén, 
Bông rời không kẻ quét đầy đàng. 
* 
Thiệt thơm xuân sớm lối ngoài vườn, 
Ôm lấy tần tranh tới hoa đường. 
Ngâm khúc Giang nam vì đó khảy, 
Tình sâu xin gửi thấu lòng chàng. 
* 
Bắc phương hiểm trở vượt non sông, 
Muôn dặm non từ dứt nẻo thông, 
Trấp bạc gối đầu dầm áo lụy, 
Chữ vàng xiêm giẻ thảy xười bông. 
* 
Ba xuân hồng nhạn tiếng qua sông, 
Ấy đó người lìa đứt ruột trông, 
Chửa đứt dây đờn lòng đã đứt, 
Đã xong mối thảm, khúc chưa xong. 
* 
Chàng nay nhớ thiếp nặng bằng non, 
Thiếp cũng nhớ chàng mỗi phút luôn, 
Một bổn dệt đem dâng cúng chúa, 
Cầu tha chồng thiếp sớm về cùng. 
Trương Minh Ký 
2. Việc thúc đẩy sử dụng chữ quốc ngữ của người Pháp. 
Từ năm 1867, quyển Chuyện đời xưa của Trương Vĩnh Ký ra đời và trước 
đó năm 1865 tờ Gia Định báo được in bằng chữ quốc ngữ, nhà cầm quyền 
Pháp tại miền Nam đã thấy phương tiện truyền thông bằng chữ quốc ngữ 
cho người Việt Nam có khả năng thích hợp hơn chữ Pháp, chữ Hán hay chữ 
Nôm, vì nó dễ học, người Việt nhờ chữ quốc ngữ mà thông hiểu trực tiếp 
ngôn ngữ của mình. Về điểm nầy chúng ta có thể đọc một đoạn văn trong 
Gia Định báo: 
"" Thầy Ký ( Trương Vĩnh Ký ) dạy học, có làm sách mẹo dạy tiếng Lang-sa, 
có làm ra chữ quốc-ngữ để người ta dễ học, những người ký-lục giỏi cùng 
siêng-năng sẽ lo mà học chữ quốc-ngữ vì có hai mươi bốn chữ mà viết đặng 
muôn ngàn chuyện, chữ chi mắc rẽ cũng viết đặng, không phải như chữ ta 
(8), học già đời mà còn có những chữ lạ viết không ra, ở đây có Phủ Tường 
(9) đã học dặng chữ quốc-ngữ, viết đặng, đọc đặng. Chữ ấy chẳng khó đâu, 
ra công học một đôi tháng thì thuộc hết "" 
(Gia-định báo, ngày 15-4-1867) (10) 
Hơn 10 năm sau, nhà cầm quyền Pháp quyết định dùng chữ quốc ngữ để làm 
văn tự chánh thức cho miền Nam. Sự việc nầy không phải chánh phủ Pháp 
muốn khai phá cho dân Việt, mà đây cũng chỉ là một trong những mưu đồ 
thôn tính Việt Nam. Chẳng hạn như : 
Ngày 1-2-1862: Lập khám đường ở Côn Nôn 
 2-4-1863: Đặc nhượng cho hảng tàu Nhà rồng (Messageries 
Maritimes) một sở đất với tánh cách vĩnh viễn. 
 29-6-1864: Chỉ thị tổng quát về nền hành chánh và cai trị nhân 
dân bản xứ. 
 24-9-1864: Nghị định ban hành Đạo chỉ dụ ngày 24-7-1864 ấn 
định tổ chức nền tư pháp trong các tỉnh của Pháp ở Nam Kỳ. 
 21-12-1864: Ban hành ở thuộc địa những điều luật của các bộ 
luật Pháp áp dụng ở Nam Kỳ do chỉ dụ ngày 24-7-1864. 
 7-3-1865: Nghị định ban hành chỉ dụ trên đây, đặt ra những tòa 
án tại Sàigòn. 
 13-9-1873: Nghị định qui định việc bán thuốc phiện ở Nam Kỳ. 
Tiếp theo cũng trong mưu đồ thiết lập vững mạnh và lâu dài nền cai trị đất 
Nam Kỳ, nhà cầm quyền Pháp đã ban hành Nghị định số 82 ngày 6-4-1878, 
nội dung như sau: 
Điều thứ 1. Kể từ ngày 01 tháng 01 năm 1882 tất cả văn kiện chính thức, 
nghị định, quyết nghị, sự vụ lệnh, án lệnh, chỉ thị và các văn kiện khác đều 
sẽ viết, ký và công bố bằng chữ La-tinh. 
Điều thứ 2. Cũng kể từ ngày ấy, sẽ không được ban cho bất cứ một bổ nhiệm 
nào, một thăng cấp nào trong hàng nhơn viên phủ, huyện và tổng, cho bất 
cứ là ai mà không đủ sức viết công văn bằng Quốc ngữ. 
Điều thứ 3. Cũng kể từ ngày ấy và dĩ chí ngày 01-01-1886, hương thân nào 
cũng được miễn thuế thân, hương hào nào cũng chỉ đóng phân nữa thuế 
thân và biện lại nào cũng được miễn sưu, nếu họ đủ sức viết công văn bằng 
Quốc ngữ. 
Điều thứ 4. Kể từ ngày 01-01-1886, không ai được lãnh các nhiệm vụ trên 
đây, nếu không biết Quốc ngữ đàng hoàng. 
Tuy nhiên, biện pháp nầy chỉ được miễn cho những người nào trước thời 
gian đó đã được chú ý vì họ sốt sắn và lương thiện trong lúc thi hành các 
nhiệm vụ ấy. 
Thống đốc Nam Kỳ 
Lafont (11) 
Nghị định 82 nầy chỉ nhằm bó buộc và khuyến khích những người làm việc 
cho Pháp từ cấp huyện, tổng và làng xã, là cấp thừa hành để giúp cho công 
cuộc cai trị của họ được dễ dàng, thuế vụ không bị thất thu. 
Như vậy chúng ta thấy rõ Nghị định 82 đã thúc đẩy cho việc sử dụng chữ 
quốc ngữ trở nên chánh thức tại Miền Nam. 
3 - Kết Luận 
Thời kỳ chữ quốc ngữ phát triển chính là thời kỳ nầy trong tiến trình hình 
thành của nó. Cho đến nay, chúng ta biết Gia Định báo là một sản phẩm đầu 
tiên sử dụng chữ quốc ngữ, nhằm phổ biến nghị định, tin tức... thuộc về nhà 
cầm quyền chủ trương, còn quyển Chuyện đời xưa của Trương Vĩnh Ký có 
chủ đích phổ biến chữ quốc ngữ cho người Việt, rồi sau đó, trên Gia Định 
báo ngoài Trương Vĩnh Ký làm Chánh Tổng Tài còn có sự cộng tác của 
Huình Tịnh Của, Trương Minh Ký đã dùng nó làm phương tiện phổ biến 
chữ quốc ngữ đến đại chúng. 
Trương Vĩnh Ký là nhà thông thái, quảng bác ngữ học nhưng ông hành văn 
rất giản dị, bình dân, viết cũng y như câu nói. Đến Huình Tịnh Của và 
Trương Minh Ký lời văn cũng bình dị nhưng câu văn lại nhẹ nhàng hơn. Tuy 
Trương Minh Ký ít người biết đến, nhưng ông là người cộng tác gắn bó với 
Trương Vĩnh Ký trên Gia Định báo và Thông Loại Khóa Trình, còn Huình 
Tịnh Của được nhiều người biết đến nhờ quyển Đại Nam Quấc Âm Tự Vị 
của ông. 
Các nhà văn tiền phong kể trên rất có công trong việc truyền bá chữ quốc 
ngữ vào thời kỳ phôi thai, nhờ đó đến đầu thế kỷ thứ hai mươi, văn học quốc 
ngữ miền Nam cũng tiên phong trong các bộ môn văn học. 
Tôn vinh những nhà văn quốc ngữ tiên phong miền Nam như Trương Vĩnh 
Ký, Huình Tịnh Của, Trương Minh Ký bởi sự nghiệp văn học của họ và 
nhiệt tâm truyền bá chữ quốc ngữ vào thời buổi sơ khai, đáng cho chúng ta 
ngưỡng vọng. Và nhờ họ mà Văn học Việt Nam sau nầy phát triển nhanh 
chóng khắp mọi miền đất nước. 
* 
Huỳnh Ái Tông 
(1) Nhân Loại bộ mới số 4 ngày 15-10-1958 trang 30-32 
(2) Chúng tôi dùng chữ trong ngoặc thay cho chữ Hán. 
(3) Chúng tôi để nguyên văn, không sửa chữa chánh tả, xống: sống 
(4) Chép theo Petite Dictionnaire Francais-Annamite. 
(5) Không ghi năm tháng. 
(6) Chép nguyên văn. 
(7) Có lẽ thợ nhà in đã bỏ sót mất một đoạn: Từ Thức gặp lại Giáng Hương 
ở cõi tiên, được tác hợp thành vợ chồng. 
(8) Chữ Nôm 
(9) Tôn Thọ Tường 
(10) NGUYỄN BÁ THẾ, Tôn Thọ Tường, Tân Việt. Sàigòn 1957 trang 29 
(11) Bản dịch của nhà văn Thuần Phong Ngô Văn Phát. 

File đính kèm:

  • pdfCac nha van quoc ngu tien phong 1.pdf
Bài giảng liên quan