Con đường Bác Hồ ra đi cứu nước

Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là người thiếu niên 15 tuổi. Người thiếu niên ấy đã sớm hiểu biết và rất đau xót trước cảnh thống khổ của đồng bào. Lúc bấy giờ anh đã có chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào. Anh đã tham gia công tác bí mật, nhận công việc liên lạc. Anh khâm phục các cụ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu, nhưng không hoàn toàn tán thành cách làm của một người nào. Vì:

Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương. Anh nhận điều đó là sai lầm, chẳng khác gì xin giặc rủ lòng thương.

Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy hiểm, chẳng khác gì "đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau".

Cụ Hoàng Hoa Thám còn thực tế hơn, vì trực tiếp đấu tranh chống Pháp. Nhưng theo lời người ta kể thì cụ còn nặng cốt cách phong kiến.

Nghiên cứu những bài học lịch sử của các bậc cha, anh và khảo nghiệm trong thực tiễn, anh Nguyễn Tất Thành thấy rằng mọi cách thức tiến hành ở trong nước, hay đi ra nước ngoài, sang Trung Quốc, hay Nhật Bản đều không thể thành công. Những con đường mà các bậc sĩ phu đã đi đều bị kết thúc bằng những thất bại đau đớn. Phải tìm con đường khác, con đường mới; phải đi ra nước ngoài nhưng theo một hướng khác. Đó là kết luận rất quan trọng của anh thanh niên Nguyễn Tất Thành với lòng yêu nước mãnh liệt và một cách suy nghĩ táo bạo, một trí tuệ hết sức minh mẫn quyết khám phá bằng được con đường đi đến giải phóng cho đồng bào.

 

doc4 trang | Chia sẻ: dung1611 | Lượt xem: 1461 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Con đường Bác Hồ ra đi cứu nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút TẢI VỀ ở trên
thuộc tỉnh Bình Định (nay là huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) nhân ông Nguyễn Sinh Sắc được cử nhận chức tri huyện ở đó. Để tiếp tục việc học tập, từ tháng 9 năm 1909, Nguyễn Tất Thành được cha gửi đến Quy Nhơn để học thêm tiếng Pháp với thầy giáo Phạm Ngọc Thọ dạy tại Trường tiểu học Pháp - bản xứ Quy Nhơn theo chương trình lớp cao đẳng. Ông Phạm Ngọc Thọ kính trọng quan thừa biện Nguyễn Sinh Huy và rất mến Tất Đạt, Tất Thành. Tất Thành rất yêu quý Phạm Ngọc Thạch, con trai ông Thọ. (Trên đường từ Huế vào Sài Gòn, để đáp tàu ra nước ngoài tìm "con đường giúp đồng bào thoát khỏi ách thống trị của Pháp", Nguyễn Tất Thành, sau này là Nguyễn Ái Quốc, tức là Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn vàn kính yêu, đã dừng chân lại tỉnh Bình Định một thời gian đáng kể. Khoảng thời gian đó nếu tính đến đầu tháng 8-1910 là hơn 12 tháng, từ 18-5-1909 đến 30-7-1910).
Vào một ngày đầu thu (tháng 8-1910), Nguyễn Tất Thành tạm biệt Quy Nhơn, đi vào Sài Gòn.
Phong cảnh tươi đẹp, đất đai màu mỡ, rừng vàng biển bạc, nhưng đâu đâu cũng thấy có những con người lam lũ, rách rưới.
Lần theo ven biển đi đến Phan Rang, anh thấy một cảnh tượng đau lòng mà mấy năm sau, anh còn nhắc lại với một người bạn: Những người Pháp ở Pháp phần nhiều là tốt. Song những người Pháp thực dân rất hung ác, vô nhân đạo. Ở đâu chúng nó cũng thế. Ở ta, tôi cũng thấy chuyện như thế xảy ra ở Phan Rang. Bọn Pháp cười sặc sụa trong khi đồng bào ta chết đuối vì chúng nó. Đối với bọn thực dân, tính mạng của người thuộc địa da vàng hay da đen cũng không đáng một đồng xu.
Từ nửa sau tháng 9-1910 đến trước tháng 2-1911, Nguyễn Tất Thành dạy học ở Trường Dục Thanh (Phan Thiết). Thời gian đầu, thầy Thành ở nhờ nhà cụ Hồ Tá Bang, sau chuyển ra ở cùng với học sinh nội trú của trường tại nhà Ngư trong vườn cụ Nguyễn Thông.
Thầy Thành được phân công dạy chữ Hán và chữ quốc ngữ cho học sinh lớp nhì. Thầy dạy rất tận tâm, hết lòng thương yêu, chăm sóc học sinh. Thầy đã trao đổi tâm tư về thân phận người dân mất nước nhiệm vụ cứu nước của mỗi người dân Việt Nam, trước hết là thanh niên có học thức với các thầy giáo và học sinh. Vấn đề thầy Thành đặt ra cũng là nỗi băn khoăn chung của thầy và trò, nên đã có ngay được sự đồng cảm sâu sắc, cùng nhau đào sâu chí căm thù và bồi dưỡng lòng tự hào về truyền thống yêu nước của dân tộc, bày mưu tính kế đánh đuổi quân thù.
Sau mấy tháng dạy học ở Trường Dục Thanh, Nguyễn Tất Thành rời trường đi vào Sài Gòn, thực hiện hoài bão từng nung nấu là tìm cách đi sang Pháp và các nước phương Tây để xem "họ làm như thế nào rồi trở về giúp đồng bào chúng ta".
Trước ngày 2 tháng 6 năm 1911, Nguyễn Tất Thành bàn với một số người bạn thân về chuyến đi ra nước ngoài. Anh nói: tôi muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta. Nhưng nếu đi một mình, thật ra cũng có điều mạo hiểm, ví như khi đau ốm... Anh muốn đi với tôi không?
Khi người bạn hỏi lấy đâu ra tiền mà đi, anh Thành vừa nói vừa giơ hai bàn tay:
- Đây, tiền đây... chúng ta sẽ làm việc. Chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi.
Ngày 2 tháng 6 năm 1911, Nguyễn Tất Thành xin làm việc ở tàu Amiran Latusơ Tơrêvin, một tàu lớn vừa chở hàng vừa chở khách của hãng Năm Sao đang chuẩn bị rời Cảng Sài Gòn đi Mác Xây, Pháp.
Ngày 3 tháng 6 năm 1911, Nguyễn Tất Thành bắt đầu làm việc ở tàu Amiran Latusơ Tơrêvin, nhận thẻ nhân viên của tàu với tên mới: Văn Ba.
Ngày 5 tháng 6 năm 1911, Nguyễn Tất Thành từ cảng Nhà Rồng, thành phố Sài Gòn (nay là thành phố Hồ Chí Minh) rời Tổ quốc. Người thanh niên 21 tuổi ấy ra đi với mục đích gì? Để kiếm kế sinh nhai, hay để thỏa mãn một ước mơ xa lạ nào đó của tuổi trẻ. Điều đó, hơn mười năm sau chính anh đã trả lời nhà báo, nhà thơ Nga ÔXip Mandenstan rằng: Vào trạc tuổi mười ba, lần đầu tiên tôi được nghe những từ TỰ DO - BÌNH ĐẲNG - BÁC ÁI. Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế và từ thuở ấy, tôi muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy.
Một lần khác, trả lời nhà văn Mỹ Anna luy Xtirông, Người nói: Nhân dân Việt Nam, trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường hỏi nhau ai là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Nhật, người khác nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi.
Sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, trước yêu cầu mới của tình hình và được Quốc tế Cộng sản chấp nhận, ngày 28 tháng 1 năm 1941, Nguyễn Ái Quốc lên đường về nước. Khi bước tới cột mốc 108 trên biên giới Việt - Trung (thuộc xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng), Người đứng lặng hồi lâu, xúc động.
Ngày 8 tháng 2 năm 1941, Nguyễn Ái Quốc ở hang Cốc Bó (hang Cốc Bó thuộc địa phận làng Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng, với bí danh Già Thu). Từ đây, Người trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Từ ngày 10 đến ngày 19 tháng 5 năm 1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị lần thứ VIII của Trung ương Đảng Cộng sản Đông dương. Trên cơ sở đánh giá tình hình giai cấp và xã hội Việt Nam trong hoàn cảnh chiến tranh thế giới, với quan điểm lý luận gắn với thực tiễn cách mạng, Hồ Chí Minh nêu cao vấn đề giải phóng dân tộc, coi đó là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng. Người kêu gọi: "Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng". Tiếp thu tư tưởng chỉ đạo của Người, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ghi rõ: "Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được". Đồng thời, Hồ Chí Minh sáng lập ra Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh gọi tắt là Mặt trận Việt Minh, nhằm đoàn kết mọi lực lượng yêu nước, chống đế quốc, giành độc lập dân tộc, không phân biệt dân tộc, giai cấp, đảng phái, tôn giáo... Nhằm phát huy sức mạnh của ba dân tộc Việt, Miên, Lào dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, theo sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh, Hội nghị chủ trương: ở Lào và ở Campuchia thành lập mặt trận thống nhất riêng của hai dân tộc: Ai Lao độc lập đồng minh và Cao Miên độc lập đồng minh. Sau khi cách mạng thắng lợi, mỗi quốc gia sẽ thành lập một chính phủ riêng và độc lập. Đối với nước ta, Hội nghị chủ trương thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lấy cờ đỏ với ngôi sao vàng năm cánh ở giữa làm quốc kỳ. Để đoàn kết toàn dân một cách rộng rãi, thực hiện chủ trương cứu nước do Hội nghị Trung ương lần thứ tám nêu ra, trong bản Chương trình hành động, Việt Minh đã đề ra những chính sách cụ thể nhằm đoàn kết các tầng lớp nhân dân, tiến lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Cùng với Kính cáo đồng bào của Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh), ngày 6 tháng 6 năm 1941, những chính sách cụ thể, hợp lòng dân của Việt Minh đã quy tụ toàn dân dưới ngọn cờ của Đảng do Hồ Chí Minh lãnh đạo, đưa Cách mạng tháng Tám 1945 đến thắng lợi.
Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt quốc dân đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng Trường Ba Đình (Hà Nội), tuyên bố nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám là thắng lợi của ý chí độc lập tự chủ, tự lực, tự cường của dân tộc Việt Nam và là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của tư tưởng Hồ Chí Minh ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến.
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam bước vào kỷ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh được toàn dân bầu làm Chủ tịch của nước Việt Nam mới. Với cương vị cao quý ấy, tư tưởng cách mạng và khoa học của Người được thể chế bằng Hiến pháp và pháp luật hiện hành của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1946).
Nhưng nhân dân Việt Nam giành được độc lập chưa bao lâu thì thù trong giặc ngoài câu kết với nhau đẩy nước lâm vào cảnh "nghìn cân treo sợi tóc". Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lần thứ hai.
Đường lối kháng chiến đúng đắn của Hồ Chí Minh và của Đảng đã dẫn dắt nhân dân ta làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Hòa bình được lập lại, nhưng đất nước tạm thời bị chia cắt thành hai miền. Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng đã sớm xác định rõ kẻ thù chính của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới là đế quốc Mỹ, và vạch ra đường lối cùng một lúc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Miền Nam tiếp tục thực hiện nhiệm vụ cách mạng dân tộc, dân chủ; miền Bắc đã được hoàn toàn giải phóng, từng bước tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa, nửa phong kiến, được một Đảng Cộng sản lãnh đạo đã cùng một lúc tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược và quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong điều kiện ấy, tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng phát triển và thấm sâu vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Trước khi qua đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta bản Di chúc thiêng liêng. Trong Di chúc, Người đã nói lên niềm tin tất thắng ở sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước; tổng kết sâu sắc những bài học đấu tranh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam; đồng thời đề ra những phương sách lớn để xây dựng lại đất nước sau chiến tranh nhằm thực hiện mục tiêu: "Xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới".
Bản Di chúc là những lời căn dặn cuối cùng đầy tâm huyết, thắm đượm tình người của Chủ tịch Hồ Chí Minh; một di sản vô cùng quý báu của dân tộc và nhân loại.
Với lòng kính yêu và thương tiếc vô hạn, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã thực hiện nghiêm chỉnh Di chúc thiêng liêng của Người "đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào", giải phóng hoàn toàn miền Nam, hòa bình, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội.

File đính kèm:

  • docCON DUONG BAC HO RA DI TIM DUONG CUU NUOC.doc
Bài giảng liên quan