Con người trong thơ Hàn Mặc Tử

Con người luôn luôn là vấn đề trung tâm của văn học ở bất cứ thời đại nào. Thơ mới 1932-1945 đã cho chúng ta hình ảnh về con người trong quan hệ tình yêu, trong trạng thái mộng mơ, buồn sầu, cô đơn, đặc biệt đã chú trọng khắc hoạ hình ảnh con người trong tiềm thức. Hàn Mặc Tử là nhà thơ đã có rất nhiều đóng góp về phương diện này. Con người trong thơ ông được cảm nhận qua những mặt sau:

 1.Con người vũ trụ:

 Một trong những đặc điểm của văn hoá phương Đông là coi con người như một bộ phận của thế giới “Thiên, Địa, Nhân”, con người là một “tiểu vũ trụ”. Điều này thể hiện trong văn chương thành con người tương thông, tương cảm với thiên nhiên. Từ đó sản sinh ra một đặc điểm nghệ thuật của thơ ca, đặc biệt là thơ ca dân gian và thơ ca trung đại: dùng thiên nhiên làm thứ “ngôn ngữ thứ hai” để miêu tả và diễn đạt các trạng thái tình cảm của con người. Đặc điểm này được tiếp nối và cách tân bởi Thơ mới. Khi Thế Lữ “du hồn” vào thiên nhiên, khi nỗi buồn của Bích Khê “vương cây ngô đồng” hoặc khi Huy Cận cảm ứng với vạn vật “nghìn cây mở ngọn, muôn lòng hé phơi” thì có nghĩa là giữa thiên nhiên và con người còn có sự phân cách. Ơû Hàn Mặc Tử sự phân cách này biến mất, ông hoà nhập hoàn toàn vào thiên nhiên, không phân biệt chủ thể – khách thể. Điều này làm cho thơ ông đậm chất siêu thực. Trong bài “Nói chuyện với Gái quê” ông tự khắc hoạ hình ảnh của mình:

 Ta thường giơ tay níu ngàn mây

 Đi lại lang thang trên ngọn cây.

 

doc7 trang | Chia sẻ: baobinh26 | Lượt xem: 642 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Con người trong thơ Hàn Mặc Tử, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút TẢI VỀ ở trên
ột định nghĩa lạ lùng về thơ : “thơ là sự ham muốn vô biên những nguồn khoái lạc trong trắng của một cõi trời cách biệt” (Quan niệm thơ).
   Sáng tạo nghệ thuật là đem tới những cái lạ, cái người khác chưa từng nói đến, nghĩ đến. Thơ Hàn Mặc Tử đầy rẫy cái lạ. Lạ trong cách nhìn thế giới:
   Hơi nắng dịu dàng đầy nũng nịu
   Sau rào khẽ liếm cặp môi tươi
                     (Nắng tươi)
lạ trong cách cảm nhận sự vật: “Ta đã ngậm hương trăng đầy lỗ miệng”, lạ trong trạng thái tinh thần lê mê, rã rời, lướt mướt, điên cuồng trong cách biểu lộ tình cảm: “Say tê trăng sần sượng cả làn da”, trong cách dùng từ, so sánh, liên tưởng: “Xuân trên má nường thơ/ Ngon như tình mới cắn” (Cao hứng), lạ trong cách chuyển ý nhanh và xa, tức thơ ông có sự chuyển kên rất mau lẹ, phản ánh nội lực tinh thần, khả năng liên tưởng mạnh mẽ, chính vì vậy mà Hoài thanh cảm thấy “mệt lả” khi đọc thơ Hàn Mặc Tử. Ở bài “Trăng vàng trăng ngọc” tác giả đi từ ý tưởng “bán trăng” đến “bán đoàn viên, ước hẹn hò” và đến lời hẹn:
      Bao giờ đậu trạng vinh quy đã
      Anh lại đây tôi thối chữ thơ.
      Có thể dẫn ra rất nhiều ví dụ như vậy: Mơ hoa, Lang thang, Ngủ với trăng Điều này làm cho kết cấu một số bài không chặt chẽ, một khổ thơ được dùng hai bài khác nhau. Trong một bài có sự chuyển đổi đại từ nhân xưng: từ ta sang tôi, từ mi đến ta đến tôi
      Đồng thời ông còn có những chuyển đổi rất mau lẹ từ ấn tượng tinh thần đến cảm nhận thể xác. Điều này cho ta thấy giác quan của ông rất nhạy bén. Ông sống thực sự cả tinh thần và thể xác với những cái đang xảy ra. Nhìn trăng ông cảm thấy “ngọt ngào trong cổ họng như vừa uống xong ngụm nước lạnh, mát đến tê hết cả lưỡi và hàm răng” (Chơi giữa mùa trăng). Từ nỗi nhớ người yêu đến hành động vô thức “anh đi thơ thẩn như ngây dại” / Hứng lấy hương nồng trong áo em”. Từ trạng thái ghen đến phản ứng xúc giác “miệng lưỡi khô khan hết cả thèm” (Ghen) Sự chuyển biến nhanh chóng của quá trình “ngoại cảnh xâm lấn xác thịt và linh hồn” chi phối sự chuyển đổi đột ngột của ngôn ngữ thơ từ miêu tả sang đối thoại hoặc độc thoại:
      Trong khóm vi lau dào dạt mãi
      Tiếng lòng ai nói sao? Sao im đi
      Ô kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm
      Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe.
                        (Bẽn lẽn)
      Nhiều nhà nghiên cứu phát hiện Hàn Mặc Tử hay dùng những từ liên quan đến môi, miệng như: nuốt, thèm thuồng, hớp, uống Một mặt ông hớp, đớp, nuốt váng trời, miếng cười, mùi trăng mặt khác lại ợ ra, mửa ra, ọc ra trăng, thơ, hồn, nguồn thơm “Bên đồi ta ợ ra trăng cả/ Ướt áo nhưng mà chưa no nê” (Ý trinh). Sự kết hợp giữa những hình ảnh, từ ngữ vốn rất xa nhau về nghĩa như vậy cho ta thấy tính chất trần tục và thoát tục của thơ Hàn Mặc Tử. Nhà nghiên cứu Bùi Xuân Bào trong bài viết Thi ảnh khẩu cảm trong thơ Hàn Mặc Tử lý giải vấn đề trên như sau: “Đối với Hàn Mặc Tử, thi hứng có nghĩa là thi sĩ nhận một luồng cảm hứng từ ngoại giới vào thể xác và tâm hồn, và sau đó thi sĩ biến luồng cảm hứng đó thành lời thơ” (2). Có thể giải thích thêm: ông tiếp nhận tinh hoa từ ngoại giới “đón từ xa một ý thơ” và phát tiết ra thơ bằng tất cả tinh lực chính vì thế mà ông có những vần thơ rướm máu. Và những hành động “cười nói làm sao cho hả hơi”, “cắn lời thơ để máu trào” giống như là sự giải thoát những ẩn ức, tâm trạng hoặc nỗi đau đè nặng trong lòng.
      3.Con người mơ ước:
      Thơ Hàn Mặc Tử cũng như thơ của các nhà thơ lãng mạn khác, tràn đầy mộng ước. Họ coi đó là một trong những cách phủ nhận thực tại. Xuân Diệu tự coi mình là “con chim đến từ núi lạ”. Huy Cận tự khắc hoạ hình ảnh của mình là “chàng trai gối mộng trên trang sách”, Hàn Mặc Tử coi mình là “người trong mộng”. Thân xác càng đau đớn cái chết càng đến gần, mộng ước càng cháy bỏng. Hàn Mặc Tử không chỉ mơ mộng, ông thực sự sống trong mộng không phân biệt cái thực và cái ảo “Tôi ngồi dưới bến đợi nường Mơ”. Vì sao Hàn Mặc Tử hay mơ ước như vậy? Thực tế đời ông không cho phép ông sống trong cuộc sống bình thường như mọi người, ông chỉ có thể yêu trong mộng, sống trong mộng. Nhưng dù cho số phận của ông không khắc nghiệt đến như vậy thì ông cũng không thể thoả mãn với thực tế. Ông luôn mang cảm giác khát, thèm nhưng không phải là đói cơm, khát nước như có người lầm tưởng. Ông “khát miếng chung tình”, khát khao thèm thuồng “những vật lạ muôn đời” nghĩa là khát khao cái Tuyệt đối, Vô biên, cái không có trong cuộc sống trần thế “Tôi tìm ánh nắng vạn đời vương”. Vì thế con người ấy phải đi tìm nó ở Đức Chúa Trời, tức ở một “cõi trời cách biệt”, ở thế giới ước mơ hay còn gọi là Thiên Đàng trong niềm tin của một tín đồ Thiên chúa giáo để có thể “hưởng cái thơ khác nữa”. Thế giới thơ của ông là “bến xa mơ”, “nẻo mơ”, “xứ mộng”. Trong khi các nhà thơ khác mơ về quá khứ thì thế giới mộng của Hàn Mặc Tử nằm ở niềm tin, ở ảo giác của ông, nằm ngay trong hiện tại:
      Từ đầu canh một tới canh tư
      Tôi thấy trăng mơ biến hoá như
      Hương khói ở đâu ngoài xứ mộng
      Cứ là mỗi phút mỗi nên thơ.
                        (Huyền ảo)
      Điều này giải thích vì sao thơ Hàn Mặc Tử ít có kết cấu tương phản kiểu xưa – nay, gặp gỡ – chia ly . như thơ của Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Thế Lữ. Các nhà thơ này dùng kết cấu tương phản để bộc lộ sự thất vọng với thực tế trong khi thơ Hàn Mặc Tử tràn đầy niềm mong đợi về một mùa “xuân như ý”. Chính vì vậy nên dù thơ của ông là thơ của một con người ý thức rõ cái chết đang đến gần nhưng thơ không gợi lên cảm giác bi quan tối tăm như thơ vũ Hoàng Chương. Những từ ngữ tiêu tán, biến hoá, tan. Trong thơ không mang cái nghĩa thông thường của nó: cái chết, sự tàn lụi mà là sự biến hoá của vật chất từ dạng này sang dạng khác:
      Nước hoá thành trăng ra nước
      Lụa là ướt đẫm cả trăng thâu
                        (Huyền ảo)
      hoặc là sự hoà hợp, nhất thể của vật chất, của thân xác đau thương trong một thế giới khác.
      Một hồn đau rã lần theo hương khói
      Một bài thơ cháy tan trong nắng rọi
      Một lời run hoi hóp giữa không trung
      Cả niềm yêu ý nhớ, cả một vùng
      Hoá thành vũng máu đào trong ác lặn. 
      Đấy là tất cả người anh tiêu tán
      Cùng trăng sao bàng bạc xứ say mơ
      Cùng tình anh tha thiết như văn thơ
      Ràng rịt mãi cho đến ngày tận thế.
                              (Trường tương tư)
      hoà tan thành một thể mới để chiến thắng thế giới vật chất hữu hình, để trương tồn mãi cùng vạn vật:
      Chúng ta biến em ơi, thành thanh khí
      Cho tan ra hoà hợp với tình anh
      Của trời đất, của muôn vàn ý nhị
      Và tình ta sáng láng như trăng thanh.
                        (Sáng láng)
      4. Con người cô đơn, đau đớn:
      Con người cô đơn là một motif quen thuộc của thơ lãng mạn. Xuân Diệu, Nguyễn Bính cô đơn vì không tìm thấy sự chia sẻ, cảm thông của ngoại giới “Thôn đoài ngồi nhớ thôn Đông/ Cau thôn đoài nhớ giầu không thôn nào”. Hàn Mặc Tử cô đơn vì bị cách ly khỏi thế giới: “Anh nằm ngoài sự thực/ Em nằm trong chiêm bao”. Khoảng cách chia ly trong thơ ông không phải là sự chia cắt trong một không gian giới hạn như bên ấy, bên này, thôn Đoài, thôn Đông mà là sự chia cắt trong hai không gian hoàn toàn cách biệt ngoài sự thực, trong chiêm bao, ngoài mây nước, bên kia trời Chính vì khoảng cách không gian vô cùng như vậy mà nỗi cô liêu của con người càng trở nên khủng khiếp “một vũng cô liêu cũ vạn đời”. Những đau thương thể xác và tinh thần của ông bộ lộ thành tiếng nấc, tiếng khóc, tiếng cười, tiếng rú. Đó là nỗi đau sâu sắc, trần trụi, mang tầm vóc vũ trụ: “Nghệ hỡi Nghệ, muôn năm sầu thảm/ Nhớ thương còn một nắm xương thôi” (Muôn năm sầu thảm). Nỗi đau được diễn tả bằng nhịp điệu của sự cuồng trí vô vọng:
      Anh nuốt phứt hàng chữ
      Anh cắn vỡ lời thơ
      Anh cắn cắn cắn cắn
      Hơi thở đứt làm tư.
                  (Anh điên)
      hoặc bằng nhịp điệu buồn thấm thía:
      Rao rao gió thổi phương xa lại
      Buồn đâu say ngắm áo xuân ai.
      Lay bay lời hát, ơ buồn lạ
      E buồn trong mộng có đêm nay.
                        (Buồn ở đây)
      Từ điểm nhìn của con người bi quan các nhà Thơ mới hay nói đến cái chết. Cái chết ngang trái của những người trinh nữ “hồng nhan bạc mệnh”, “cái chết lạnh lẽo không giọt nước mắt của người đời xót thương Trong thơ Hàn Mặc Tử còn có những cái chết kì dị, lạ thường Mây chết đuối, trăng tự tử. Phải chăng đó là nỗi ám ảnh về cái chết đang đến gần với tác giả, và phải chăng cũng từ thực tế của thân xác đau thương mà trong thơ ông có nhiều hình ảnh máu đến thế? Làn môi thiếu nữ tươi như máu, mặt nhật tan thành máu, gánh máu, máu đang tươi
      Cuộc đời trong quan niệm của các nhà thơ lãng mạn là sự dở dang, không trọn vẹn. Thơ Hàn Mặc Tử cũng nằm trong cảm hứng ấy. Cũng như Xuân Diệu, ngay khi sự sống đương hồi mơn mởn trong mùa xuân tươi thắm là thế Hàn Mặc Tử đã nhìn thấy cái kết cục ảo não của nó:
      Sóng cỏ xanh tươi gợm tới trời
      Bao cô thiếu nữ hát bên đồi
      Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
      Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi.
                        (Mùa xuân chín)
      Một trong những tiêu chuẩn để đánh giá tài năng nghệ sĩ là cái lạ, cái độc đáo. Sáu mươi năm trước, đọc thơ Hàn Mặc Tử, Hoài Thanh viết: “Ta chỉ thấy trong văn thơ cổ kim không có gì kinh dị hơn”. Thơ ca Hàn Mặc Tử lạ trong cách suy nghĩ, lập ý, so sánh, trong cách dùng từ ngữ, hình ảnh. Và cái lạ nhất là một con người phải trải qua những nỗi đau thể xác và tinh thần ghê gớm như vậy nhưng giọng thơ nói chung không bi quan mà luôn mơ ước, hướng tới thế giới vĩnh hằng “tứ thời xuân non nước” và cũng là con người đã viết ra một trong những vần thơ trong sáng nhất của thơ ca Việt Nam:
      Trong làn nắng ửng khói mơ tan
      Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
      Sột soạt gió trêu tà áo biếc
      Trên giàn thiên lý bóng xuân sang
                  (Mùa xuân chín).
      CHÚ THÍCH
Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thi ca. Chủ biên Huy Cận, Hà Minh Đức – NXB Giáo dục 1993, trang 130.
Trích dẫn theo Phan Cự Đệ – Thơ văn Hàn Mặc Tử – NXB Giáo dục 1993, trang 439.

File đính kèm:

  • docCon nguoi trong tho Han Mac Tu.doc
Bài giảng liên quan