Đề Cương Giới Thiệu Luật Phòng, Chống Nhiễm Vi Rút Gây Ra Hội Chứng Suy Giảm Miễn Dịch Mắc Phải Ở Người (HIV/AIDS)

Từ khi trường hợp nhiễm HIV đầu tiên ở Việt Nam được phát hiện (tháng 12/1990) cho đến tháng 15/9/2005, trên cả nước đã phát hiện được 100.781 trường hợp nhiễm HIV, trong đó có 16.664 trường hợp đã tiến triển thành AIDS và 9.520 trường hợp AIDS đã tử vong. Tất cả 64 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và trên 94% xã, phường, thị trấn trong cả nước đều chịu sự tác động của đại dịch này.

Xác định rõ HIV/AIDS là một đại dịch nguy hiểm, là mối hiểm họa đối với tính mạng, sức khoẻ con người và tương lai nòi giống của dân tộc, tác động trực tiếp đến sự phát triển kinh tế, văn hóa, trật tự và an toàn xã hội, đe dọa sự phát triển bền vững của đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đến công tác phòng, chống HIV/AIDS từ rất sớm. Ngay sau khi Ban chấp hành Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 52- CT/TW ngày 11/3/1995 về lãnh đạo công tác phòng, chống HIV/AIDS, ngày 31/5/1995, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS); Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Y tế và các bộ, ngành có liên quan đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để hướng dẫn thi hành.

Pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS đã tạo cơ sở pháp lý cho việc triển khai có hiệu quả công tác phòng, chống HIV/AIDS trên các mặt: Thông tin - giáo dục - truyền thông; phòng, chống lây nhiễm HIV qua tiêm chích ma tuý, hoạt động mại dâm; giám sát dịch tễ học, an toàn truyền máu, điều trị, dự phòng lây nhiễm từ mẹ sang con. đã góp phần nâng cao nhận thức của người dân về dự phòng lây nhiễm HIV; bảo đảm được các chỉ tiêu về an toàn truyền máu, giám sát HIV/AIDS; ổn định và phát triển kinh tế- xã hội của đất nước và bảo đảm thực hiện các cam kết quốc tế trong lĩnh vực phòng, chống HIV/AIDS mà Việt Nam là thành viên.

 

doc12 trang | Chia sẻ: hongmo88 | Lượt xem: 1426 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề Cương Giới Thiệu Luật Phòng, Chống Nhiễm Vi Rút Gây Ra Hội Chứng Suy Giảm Miễn Dịch Mắc Phải Ở Người (HIV/AIDS), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút TẢI VỀ ở trên
i việc quy định ngay trong Luật các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV đã thể hiện cam kết, quyết tâm mạnh mẽ của Nhà nước ta trong việc hạn chế sự gia tăng của đại dịch HIV/AIDS, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho công tác phòng, chống HIV/AIDS trong thời gian tới. Đồng thời, với việc đưa quy định này vào Luật, Việt Nam trở thành quốc gia đầu tiên có quy định về các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV trong số hơn 30 quốc gia có luật về phòng, chống HIV/AIDS.
3. Chương III - Các biện pháp về chuyên môn kỹ thuật y tế trong phòng, chống HIV/AIDS gồm 14 điều (từ Điều 24 đến Điều 37) được chia thành ba mục:
	a) Mục 1 - Giám sát dịch tễ học HIV/AIDS (Điều 24 và Điều 25) bao gồm các quy định về giám sát dịch tễ học HIV/AIDS và giám sát trọng điểm HIV.
	b) Mục 2- Tư vấn và xét nghiệm (từ Điều 26 đến Điều 30) bao gồm các quy định về tư vấn trước và sau khi xét nghiệm HIV; xét nghiệm HIV tự nguyện; xét nghiệm HIV bắt buộc; quy định về cơ sở xét nghiệm đủ điều kiện khẳng định các trường hợp HIV dương tính và quy định về thông báo kết quả xét nghiệm HIV dương tính.
	c) Mục 3 - Các biện pháp chuyên môn kỹ thuật y tế khác trong phòng, chống HIV/AIDS (từ Điều 31 đến Điều 37) bao gồm các quy định về an toàn truyền máu; phòng, chống lây nhiễm HIV trong các cơ sở y tế, cơ sở dịch vụ xã hội; phòng, chống các bệnh lây truyền qua đường tình dục có liên quan đến HIV; phòng, chống lây nhiễm HIV từ mẹ sang con; dự phòng sau phơi nhiễm với HIV; nghiên cứu, thử nghiệm, sản xuất vắc xin, sinh phẩm và thuốc điều trị HIV/AIDS.
	Điểm mới của Chương III là các biện pháp chuyên môn kỹ thuật y tế trong phòng, chống HIV/AIDS trong Chương này đã được quy định toàn diện hơn so với Pháp lệnh năm 1995 với việc đưa ra các quy định chuyên môn cụ thể như giám sát dịch tễ học, tư vấn xét nghiệm, an toàn truyền máu; phòng, chống lây nhiễm HIV trong các dịch vụ y tế, cơ sở dịch vụ xã hội; phòng, chống các bệnh lây truyền qua đường tình dục có liên quan đến HIV; phòng, chống lây nhiễm HIV từ mẹ sang con... Cụ thể như sau:
	- Tư vấn về HIV/AIDS (Điều 22 và Điều 26): So với Pháp lệnh năm 1995 thì đây là một quy định hoàn toàn mới, bao gồm các quy định về tư vấn chung về HIV/AIDS (Điều 22) và tư vấn sâu về HIV/AIDS trước và sau khi xét nghiệm HIV (Điều 26). Tuy nhiên, để tránh các ảnh hưởng không mong muốn của tư vấn về HIV/AIDS đối với người được tư vấn, Luật đã quy định cụ thể về điều kiện của người thực hiện việc tư vấn trước và sau khi xét nghiệm HIV, đồng thời giao Bộ trưởng Bộ Y tế quy định cụ thể về điều kiện thành lập và nội dung hoạt động của tổ chức tư vấn về phòng, chống HIV/AIDS.
	- Xét nghiệm HIV bắt buộc (Điều 28): Trước tình trạng xét nghiệm HIV bắt buộc diễn ra khá phổ biến hiện nay, để bảo đảm các quyền của công dân trong khám bệnh, chữa bệnh, Luật đã quy định việc xét nghiệm HIV chỉ được thực hiện trong trường hợp có trưng cầu giám định tư pháp hoặc quyết định của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân hoặc Toà án nhân dân hoặc trong một số trường hợp cần thiết để chẩn đoán và điều trị cho người bệnh hoặc trước khi tuyển dụng đối với một số nghề do Chính phủ quy định.
	- Cơ sở xét nghiệm HIV đủ điều kiện khẳng định các trường hợp HIV (Điều 29): Nhằm hạn chế tình trạng xét nghiệm HIV tràn lan đã dẫn đến nhiều hậu quả đáng tiếc như vụ án thông báo sai kết quả xét nghiệm HIV ở Hoành Bồ - Quảng Ninh, Luật đã quy định chỉ các cơ sở xét nghiệm HIV đã được Bộ Y tế công nhận đủ điều kiện khẳng định các trường hợp HIV dương tính mới được quyền khẳng định các trường hợp HIV dương tính và chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả đó.
	- Thông báo kết quả xét nghiệm HIV dương tính (Điều 30): Nếu Pháp lệnh năm 1995 quy định rất chung về người được quyền thông báo và đối tượng được thông báo kết quả xét nghiệm HIV dương tính thì để bảo đảm việc bí mật riêng tư đối với người nhiễm HIV; Luật phòng, chống HIV HIV/AIDS đã quy định rất cụ thể về đối tượng được quyền thông báo, nhận thống báo về kết quả xét nghiệm HIV dương tính, đồng thời cũng quy định trách nhiệm của các đối tượng này trong việc giữ bí mật kết quả xét nghiệm HIV dương tính.
	4. Chương IV - Điều trị, chăm sóc và hỗ trợ người nhiễm HIV gồm 5 điều (từ Điều 38 đến Điều 42) quy định về trách nhiệm trong việc điều trị người nhiễm HIV; tiếp cận thuốc kháng HIV; bảo hiểm y tế đối với người nhiễm HIV; chăm sóc người nhiễm HIV và áp dụng pháp luật hình sự, tố tụng hình sự, xử lý vi phạm hành chính đối với người bị xử lý hình sự, hành chính mà bị bệnh AIDS giai đoạn cuối.
	Chương này là Chương mới, được xây dựng trên cơ sở kế thừa những quy định đang phát huy hiệu quả trong thực tiễn và quy định chi tiết thêm quy định về điều trị người nhiễm HIV, bổ sung quy định hoàn toàn mới về chăm sóc người nhiễm HIV; tiếp cận thuốc kháng HIV; tạm hoãn hoặc miễn hoặc giảm thời hạn chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính, chấp hành hình phạt tù đối với người bị bệnh AIDS giai đoạn cuối và bảo hiểm y tế đối với người nhiễm HIV. Cụ thể như sau:
	- Tiếp cận thuốc kháng HIV (Điều 39): Trước nhu cầu rất lớn về thuốc kháng HIV trong khi Nhà nước ta chưa đủ khả năng về ngân sách để đáp ứng đủ nhu cầu này, Luật đã quy định cụ thể về các đối tượng được Nhà nước bảo đảm sử dụng thuốc kháng HIV miễn phí, đối tượng được ưu tiên cấp thuốc kháng HIV miễn phí:
2. Người bị phơi nhiễm với HIV, bị nhiễm HIV do tai nạn rủi ro nghề nghiệp, người bị nhiễm HIV do rủi ro của kỹ thuật y tế, phụ nữ nhiễm HIV trong thời kỳ mang thai, trẻ em dưới 6 tuổi nhiễm HIV được Nhà nước cấp miễn phí thuốc kháng HIV.
3. Thuốc kháng HIV do ngân sách nhà nước chi trả, thuốc do tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài tài trợ được cấp miễn phí cho người nhiễm HIV tại các cơ sở điều trị HIV/AIDS theo thứ tự ưu tiên sau đây:
a) Trẻ em từ đủ 6 tuổi đến dưới 16 tuổi nhiễm HIV;
b) Người nhiễm HIV tích cực tham gia phòng, chống HIV/AIDS;
c) Người nhiễm HIV có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn;
d) Những người khác nhiễm HIV.
	- Bảo hiểm y tế đối với người nhiễm HIV (Điều 40): Luật đã quy định người đang tham gia bảo hiểm y tế bị nhiễm HIV được Quỹ bảo hiểm y tế chi trả các chi phí khám bệnh, chữa bệnh. Đây cũng là một điểm đặc biệt mới so với Pháp lệnh năm 1995, thể hiện sự quan tâm của Nhà nước ta đối với người nhiễm HIV, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của người nhiễm HIV, đồng thời là quy định thể hiện rõ nét quan điểm chống kỳ thị, phân biệt đối xử đối với người nhiễm HIV.
	- Chăm sóc người nhiễm HIV (Điều 41): Nếu như Pháp lệnh năm 1995 chỉ dừng lại ở việc quy định "Người bị nhiễm HIV/AIDS mắc các bệnh nhiễm trùng cơ hội thuộc chuyên khoa nào được cứu chữa tại chuyên khoa đó hoặc tại chuyên khoa riêng", chưa đề cập đến việc chăm sóc người nhiễm HIV thì Luật phòng, chống HIV/AIDS đã quy định cụ thể trách nhiệm của gia đình, cơ sở y tế, cơ sở bảo trợ xã hội trong việc chăm sóc người nhiễm HIV. Trong hợp người nhiễm HIV là trẻ em bị bỏ rơi hoặc là người không nơi nương tựa, không còn khả năng lao động được chăm sóc, nuôi dưỡng miễn phí tại cơ sở bảo trợ xã hội của Nhà nước.
	- Áp dụng pháp luật hình sự, tố tụng hình sự, xử lý vi phạm hành chính đối với người bị xử lý hình sự, hành chính mà bị bệnh AIDS giai đoạn cuối (Điều 42): Đây là một quy định thể hiện bản chất nhân đạo của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, theo đó, nếu:
1. Người đang bị điều tra, truy tố, xét xử mà bị bệnh AIDS giai đoạn cuối được tạm đình chỉ điều tra hoặc tạm đình chỉ vụ án theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự. 
2. Người bị Toà án kết án mà bị bệnh AIDS giai đoạn cuối được miễn chấp hành hình phạt hoặc giảm thời hạn chấp hành hình phạt, được hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù theo quy định của pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự, thi hành án phạt tù.
3. Người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng bị bệnh AIDS giai đoạn cuối được hoãn hoặc miễn chấp hành quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng; hoãn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
 	5. Chương V - Các điều kiện bảo đảm trong việc thực hiện biện pháp phòng, chống HIV/AIDS gồm 6 điều (từ Điều 43 đến Điều 48) bao gồm các quy định về nguồn lực cho công tác phòng, chống HIV/AIDS; Quỹ hỗ trợ, điều trị, chăm sóc người nhiễm HIV; các chế độ, chính sách đối với người trực tiếp làm xét nghiệm HIV, quản lý, chăm sóc và điều trị người nhiễm HIV; chế độ đối với người bị phơi nhiễm với HIV, người nhiễm HIV do tai nạn rủi ro nghề nghiệp; đào tạo đội ngũ những người làm công tác phòng, chống HIV/AIDS và hợp tác quốc tế trong phòng, chống HIV/AIDS.
	Chương này là Chương mới quy định về nguồn lực cho công tác phòng, chống HIV/AIDS, các chế độ, chính sách đối với cán bộ trực tiếp quản lý, chăm sóc, điều trị người nhiễm HIV, hợp tác quốc tế đặc biệt là chế độ đối với người bị phơi nhiễm với HIV, bị nhiễm HIV do tai nạn rủi ro nghề nghiệp. Theo đó, người nhiễm HIV do tai nạn rủi ro nghề nghiệp được khám, chữa các bệnh nhiễm trùng cơ hội, được cấp thuốc kháng HIV miễn phí và được hưởng các chế độ khác theo quy định của Thủ tướng Chính phủ.
IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Luật phòng, chống HIV/AIDS được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 29/6/2006, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2007 là một sự kiện quan trọng thể hiện được quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về phòng, chống HIV/AIDS, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho công tác phòng, chống HIV/AIDS trong giai đoạn tới, góp phần tích cực vào việc thực hiện thành công sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân. 
Để Luật được thực hiện tốt trong cuộc sống, trước mắt cần tập trung vào một số công việc:
- Tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục Luật phòng, chống HIV/AIDS.
- Xây dựng và ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện Luật phòng, chống HIV/AIDS.
- Rà soát hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS hiện hành để đề xuất các nội dung cần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với Luật phòng, chống HIV/AIDS.

File đính kèm:

  • docĐề cương TT luat phong chong HIV 2006.doc