Đề Cương Tuyền Truyền Hiến Pháp Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
Hiến pháp năm 1992 được ban hành trong bối cảnh những năm đầu thực
hiện công cuộc đổi mới đất nước do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của
Đảng (năm 1986) đề ra và để thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991. Hiến pháp năm 1992 đ ã tạo cơ sở
chính trị - pháp lý quan trọng cho việc thực hiện công cuộc đổi mới. Qua 20 năm
thực hiện Hiến pháp năm 1992, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn,
có ý nghĩa lịch sử.
Đến nay, đất nước ta đã có nhiều thay đổi trong bối cảnh tình hình quốc tế
có những biến đổi to lớn, sâu sắc và phức tạp. Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) (sau đây
gọi chung là Cương lĩnh) và các văn kiện khác của Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI của Đảng đã xác định mục tiêu, định hướng phát triển toàn diện, bền vững
đất nước trong giai đoạn cách mạng mới nhằm xây dựng nước Việt Nam xã hội
chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Vì vậy, cần sửa
đổi Hiến pháp năm 1992 để bảo đảm đổi mới đồng bộ cả về kinh tế và chính trị,
xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân; xây dựng và bảo vệ đất nước; tích cực và chủ động hội nhập quốc tế.
h viên Chính phủ chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ, Quốc hội về ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách, cùng các thành viên khác chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Chính phủ10. Chương VIII- Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân Trên cơ sở tiếp tục kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1992 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và các nguyên tắc hoạt động của Tòa án nhân dân, Hiến pháp mới tiếp tục quy định Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Đồng thời, bổ sung quy định Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp; sửa đổi quy định về hệ thống tổ chức Tòa án cho phù hợp với chủ trương cải cách tư pháp theo hướng không xác định cấp Tòa án cụ thể 10 TL đã dẫn, Điều 95. trong Hiến pháp mà để luật quy định: “Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định”11. Hiến pháp tiếp tục khẳng định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện Kiểm sát nhân dân là thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Đồng thời, Hiến pháp làm rõ hơn nguyên tắc hoạt động của Kiểm sát viên khi thực hiện quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp là tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân; sửa đổi quy định về hệ thống tổ chức Viện kiểm sát cho phù hợp với chủ trương cải cách tư pháp. Chương IX – Chính quyền địa phương: Chương IX của Hiến pháp gồm 7 điều (từ Điều 110 đến Điều 116). Chương này cũng quy định một cách tổng quát về phân chia đơn vị hành chính, còn những vấn đề về tổ chức, thẩm quyền của từng cấp chính quyền địa phương sẽ do luật định. Cụ thể như sau: 1. Về đơn vị hành chính: Hiến pháp kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1992 về các đơn vị hành chính nhằm bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ, ổn định trong cấu trúc hành chính ở nước ta; đồng thời bổ sung quy định về đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, đơn vị hành chính tương đương với quận, huyện, thị xã thuộc thành phố trực thuộc trung ương. Theo đó, nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương đương; huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia thành phường và xã; quận chia thành phường; đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập (Điều 110). Bổ sung quy định “Việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính phải lấy ý kiến Nhân dân địa phương và theo trình tự, thủ tục do luật định” (khoản 2 Điều 110). 2. Về tổ chức chính quyền địa phương: Hiến pháp quy định khái quát theo hướng: “Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông 11 TL đã dẫn, khoản 2 Điều 102. thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định” (Điều 111). Việc tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cụ thể ở từng đơn vị hành chính sẽ được quy định trong Luật tổ chức chính quyền địa phương trên cơ sở tổng kết việc thực hiện chủ trương của Đảng thí điểm một số nội dung về tổ chức chính quyền đô thị và kết quả tổng kết thực hiện Nghị quyết 26 của Quốc hội, đáp ứng yêu cầu tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt và các nguyên tắc phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương và giữa các cấp chính quyền địa phương. 3. Về nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương: Hiến pháp quy định chính quyền địa phương tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương; quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên. Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương. Trong trường hợp cần thiết, chính quyền địa phương được giao thực hiện một số nhiệm vụ của cơ quan nhà nước cấp trên với các điều kiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ đó (Điều 112). 4. Về địa vị pháp lý và chức năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phương: Kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp tiếp tục khẳng định Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Hội đồng nhân dân quyết định các biện pháp bảo đảm thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, các vấn đề quan trọng của địa phương và giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước ở địa phương (Điều 113). Ủy ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên (Điều 114). Hiến pháp cũng sắp xếp lại và quy định rõ hơn tính chất, trách nhiệm, thẩm quyền của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân để phù hợp với nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước thống nhất và mối quan hệ giữa trung ương và địa phương trong tình hình mới (Điều 113, Điều 114). Chương X- Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước Để làm rõ hơn quyền làm chủ của nhân dân, cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực, hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp quyền XHCN, tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của mình, Hiến pháp sửa đổi đã bổ sung hai thiết chế hiến định độc lập, bao gồm: Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán Nhà nước trong Chương X. Hội đồng bầu cử quốc gia là cơ quan do Quốc hội thành lập, có nhiệm vụ tổ chức bầu của Đại biểu Quốc hội, chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Việc hiến định thiết chế này góp phần thể chế hóa một trong những chủ trương của Đảng là “tăng cường hình thức dân chủ trực tiếp theo hướng hoàn thiện chế định bầu cử12”, phù hợp với điều kiện thực tiễn ở nước ta hiện nay. Về Kiểm toán Nhà nước: Hiến pháp mới hiến định địa vị pháp lý của Kiểm toán Nhà nước trong Hiến pháp để nhằm tăng cường vị thế và trách nhiệm của cơ quan Kiểm toán Nhà nước. Đây là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, có chức năng kiểm toán việc quản lý, sử dụng nguồn lực tài chính và tài sản quốc gia. Việc hiến định này phù hợp với thực tiễn hoạt động của Kiểm toán nhà nước cũng như thông lệ quốc tế hiện nay. Chương XI - Hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp Bên cạnh các quy định về từng lĩnh vực cụ thể, Hiến pháp sửa đổi còn quy định thẩm quyền, thủ tục, trình tự của việc làm Hiến pháp. Trên thực tế, việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992 lần này được thực hiện theo quy định tại Điều 147 của Hiến pháp hiện hành. Theo đó, Quốc hội quyết định việc sửa đổi Hiến pháp và thành lập Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp để xây dựng Dự thảo sửa đổi Hiến pháp trình Quốc hội cho ý kiến và trình xin ý kiến nhân dân. Trên cơ sở ý kiến 12 Kết luận của Hội nghị trung ương 5 khóa XI của nhân dân, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp chỉnh lý, hoàn thiện Dự thảo, trình Quốc hội xem xét, thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Về việc sửa đổi Hiến pháp các lần sau này, Hiến pháp sửa đổi cụ thể hóa các quy định về thẩm quyền đề nghị sửa đổi Hiến pháp, thủ tục soạn thảo Hiến pháp, quy trình thông qua Hiến pháp. Cụ thể như sau: Quốc hội quyết định việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành theo đề nghị của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội; Quốc hội thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp gồm những thành viên là đại biểu Quốc hội, đại diện của các cơ quan, tổ chức hữu quan theo đề nghị của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Thành phần, số lượng thành viên, nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban dự thảo Hiến pháp do Quốc hội quyết định; Ủy ban dự thảo Hiến pháp soạn thảo, tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo Hiến pháp và trình Quốc hội xem xét, thông qua; Dự thảo Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định. Là văn bản có hiệu lực cao nhất, Hiến pháp sửa đổi khẳng định: mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp, mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý. Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của nhà nước và toàn thể Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp. Để có căn cứ pháp lý cho việc triển khai thi hành Hiến pháp mới, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết quy định một số điểm thi hành Hiến pháp, trong đó xác định rõ trách nhiệm của Quốc hội, Chính phủ, các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ chức, nhân dân trong việc tổ chức thi hành Hiến pháp, bảo đảm Hiến pháp được tuân thủ và đi vào cuộc sống./. * Tài liệu tham khảo 1. Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 - Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sửa đổi), bản được chứng thực ngày 28/11/2013; 2. Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 - Báo cáo giải trình tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trình Quốc hội xem xét, thông qua; 3. Báo cáo tóm tắt tổng hợp ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992; 4. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Nghị quyết quy định một số điểm thi hành Hiến pháp sửa đổi; 5. Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 - Báo cáo tổng kết 20 năm thi hành Hiến pháp năm 1992; 6. Viện Nghiên cứu lập pháp – Báo cáo tổng hợp ý kiến góp ý của nhân dân thông qua các Hội nghị, Hội thảo, tọa đàm.
File đính kèm:
- Đề cương tuyên truyền Hiến Pháp VN 2013.pdf