Đề tài: Kinh tế hàng hóa thế kỷ XVI - VXIII

I. bối cảnh lịch sử

 Nhà Nguyễn ra đời và tồn tại không những trong một bối cảnh đặc biệt của đất nước mà còn trong tình hình thế giới có nhiều biến chuyển lớn . Thắng lợi của chủ nghĩa tư bản ở Tây Âu đã kéo theo sự phát triển của chủ nghĩa thực dân và của sự giao lưu buôn bán quốc tế . Sự phát triển nền kinh của chủ nghĩa tư bản đòi hỏi thị trường để giải quyết việc tiêu thụ hàng hoá , nhân công , nguyên liệu để cung cấp cho sự phát triển kinh té tư bản chủ nghĩa . Để giải quyết nhu cầu đó , các nước tư bản đẩy mạnh đi xâm lược vũ trang . Chủ yếu tập trung ở khu vực phương Đông , đặc biệt ở Việt Nam từ thế kỉ XVIII các giáo sĩ phương Tây ngày càng đẩy mạnh xâm nhập vào Việt Nam để truyền đạo Thiên chúa , sang thế kỉ XIX càng được đẩy mạnh khi nhà Nguyễn thành lập . Trong hoàn cảnh đó đặt ra yêu cầu là phải chuẩn bị tiềm lực để sẵn sàng đối phó với cuộc xâm lược vũ trang của tư bản Pháp : xây dựng tiềm lực cho quốc gia nhà nước về kinh tế , quốc phòng . Về kinh tế đòi hỏi phải mở rộng quyền sở hữu ruộng đất cho nhà nước . Giải quyết an cư lập nghiệp cho dân chúng , làm cho nông dân có ruộng để cày cấy đảm bảo cho xã hội ổn định phát triển .

 Trong khi đó từ giữa thế kỉ XVIII đầu XIX chế độ phong kiến ở nhiều nước phương Đông bước vào giai đoạn khủng hoảng . Một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng là do quan hệ bóc lột điạ tô phong kiến đã mâu thuẫn sâu sắc với lực lượng sản xuất là nông dân mà nguyên nhân của tình trạng đó chính là xuất phát từ vấn đề ruộng đất . Lúc này ruộng đất hầu hết tập trung vào tay giai cấp địa chủ , nông dân ở các làng xã phải phụ thuộc chặt chẽ vào địa chủ ( Theo số liệu của Quốc sử quán triều Nguyễn ở nửa đầu thế kỉ XIX cả nước có 3.945.225 mẫu ruộng thực trưng , trong khi đó ruộng công thuộc quyền sở hữu của nhà nước chỉ còn chiếm 17,8% . Ruộng đất tư hữu vào địa chủ chiếm 82,02% , đặc biệt ở Nam bộ ruộng đất tư hữu chiếm tới 92% ) . Như vậy quyền sở hữu ruộng đất của nhà nước bị thu hẹp nghiêm trọng , nguồn thu của nhà nước từ ruộng công làng xã không còn bao nhiêu . trong khi đó nhu cầu để ban cấp ruộng đất cho quan lại , xây dựng quốc phòng ngày càng cao , đồng thời nông dân đòi hỏi phải có ruộng cày để ổn định trật tự xã hội. Yêu cầu đặt ra lúc này cho triều Nguyễn là phải giải quyết tình trạng đó .

 

doc5 trang | Chia sẻ: hienduc166 | Lượt xem: 804 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài: Kinh tế hàng hóa thế kỷ XVI - VXIII, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút TẢI VỀ ở trên
 và với nước ngoài ngày càng phát triển. Hình thành hệ thống chợ ở đồng bằng sông Hồng, có lẽ mỗi huyện cũng có vài chợ phục vụ việc buôn bán trong vùng. Sứ nhà Nguyên là Trần Phu có viết: "Trong các xóm làng thường có chợ, cứ hai ngày họp một phiên, hàng hóa trăm thứ bày la liệt. Hễ cứ năm dặm thì dựng một ngôi nhà ba gian, bốn phía đặt chõng để làm nơi họp chợ". Các thành thị, thương cảng khá phát triển như thành Thăng Long là trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa lớn nhất Đại Việt lúc bấy giờ, thương cảng Vân Đồn là thương cảng lớn nhất, là trung tâm buôn bán lớn với người nước ngoài. Các hoàng đế Đại Việt thời Lý - Trần đều có đúc tiền để thuận tiện cho việc lưu thông hàng hóa.
Những biểu hiện trên cho thấy vào thời Lý - Trần, đặc biệt là thời Trần, vào khoảng thế kỷ XVIII - XIV đã phát triển nền kinh tế hàng hóa, quan hệ buôn bán, tiền tệ đã phổ biến trong phạm vi toàn quốc. Tuy nhiên kinh tế Việt Nam thời kỳ này nông nghiệp vẫn giữ vai trò chủ đạo, chưa có sự phân công rõ rệt giữa thành thị và nông thôn, thủ công nghiệp chưa tách khỏi nông nghiệp (trong một bộ phận lớn). 
2. Tình hình kinh tế thời Lê sơ:
	Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Minh, nhà Lê lập tức bắt tay vào phục hồi nền kinh tế bị chiến tranh tàn phá nghiêm trọng. Các chính sách về ruộng đất, các biện pháp bảo vệ và khuyến khích nông nghiệp một mặt tập trung quyền sở hữu và quản lý ruộng đất của nhà nước, mặt khác làm cho ruộng đất tư càng thêm phát triển. Diện tích trồng trọt tăng lên, hàng nông phẩm lưu thông trên thị trường ngày càng nhiều hơn trước,tạo điều kiện cho thủ công nghiệp hoàn toàn thoát ly khỏi nông nghiệp và phát triển mạnh. Số lượng phường thủ công tăng lên, các trung tâm buôn bán nhỏ trong nước cũng tăng nhiều hơn trước. Nhà nước cũng rất chú trọng tới việc đúc tiền và thống nhất đơn vị đo lường, ban hành những quy định về thống nhất tiền tệ. 1475, vua Lê Thánh Tông ban hành các mẫu cân, thước, thủng, đấu theo thể thức của nhà nước và còn trừng trị nghiêm khắc những người không tuân theo. Thánh Tông cũng quy định mẫu, sào, thước. Tất nhiên những quy định thống nhất đo lường trên đây trước hết vì nhu cầu thu thuế của nhà nước, nhưng nó cũng phản ánh nhu cầu phát triển của nền kinh tế hàng hóa lúc đó.
	Thăng Long vẫn là nơi tập trung buôn bán lớn nhất cả nước, dân các nơi về đây tụ tập làm ăn ngày càng đông đến nỗi chức quan cai quản phủ Phụng Thiên sợ, lệnh đuổi hết họ về nguyên quán. Năm 1481, tả trung doãn Quách Đình Bảo phải dâng sơ tâu xin vua bỏ lệnh đó và đã được Lê Thánh Tông chấp nhận. Ngoại thương cũng phát triển hơn trước. 
	Sự phát triển của kinh tế hàng hóa lại tác động trở lại đến sản xuất nông nghiệp, làm cho quá trình phân hóa ruộng đất hết sức mau chóng, chế độ tư hữu về ruộng đất đặc biệt phát triển vào thế kỷ XV. Tình trạng cướp đoạt, tranh tụng, mua bán ruộng đất vào nửa sau thế kỷ XV dưới triều Lê Thánh Tông là rất phổ biến. Bộ luật Hồng Đức đã dành một phần quan trọng để quy định về việc này.
	Như vậy là những điều kiện cần thiết cho nền kinh tế hàng hóa có thể phát triển được đã xuất hiện đầy đủ vào thế kỷ XV. Trải qua các thế kỷ XVI - XVII - XVIII do hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, dưới sự kích thích của ngoại thương, kinh tế hàng hóa lại phát triển mạnh hơn trước.
II. Sự phát triển của kinh tế hàng hóa trong các thế kỷ XVI - XVII - XVIII:
	Ơ các thế kỷ XVI - XVIII trong khi Đại Việt đang bị chia cắt thì trên thế giới có nhiều biến động lớn. Sự phát triển công thương nghiệp ở châu Âu dẫn đến những cuộc phát kiến địa lý lớn, tìm ra những con đường mới đến phương Đông, thương nhân châu Âu bắt đầu mở rộng buôn bán với các nước phương Đông. Đồng thời, thương nhân các nước Đông A như Trung Quốc, Nhật Bản, Inđônêixia cũng hoạt động rầm rộ. Vì vậy hình thành sự giao lưu buôn bán quốc tế giữa Đại Việt và các quốc gia khác. Nhu cầu hàng hóa tăng lên. Mặt khác thời kỳ này, ruộng đất tư phát triển cao độ, tác động nhiều mặt của nông nghiệp cũng tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất thủ công và trao đổi buôn bán. Nền kinh tế hàng hóa nước ta lúc này phát triển đặc biệt phồn thịnh, biểu hiện như sau:
1.Thủ công nghiệp: số lượng nghề thủ công, thợ thủ công chuyên môn hóa và các làng chuyên môn xuất hiện ngày càng nhiều.
	Hoàn cảnh mới của đất nước đã làm tăng nhu cầu về hàng thủ công. Khắp các làng xã, đâu đâu cũng hình thành những nghề thủ công, những thợ thủ công chuyên làm các nghề rèn, mộc, nề, dệt Sử cũ cho ta biết hồi đó các nghề thủ công rất đa dạng như: Nghề làm các đồ kim khí như nghề rèn, chế tạo công cụ hay đúc súng; thợ khóa; thợ thiếc làm chóp nón, quai ấm; thợ bạc làm các đồ trang sức như khuyên, dây sà tích, vòng, nhẫn Nghề làm gốm, nghề đúc sành phát triển với nhiều sản phẩm như nồi, chum, vại, bát đĩa, gạch tráng men, bình hao, chân đèn Nghề dệt vải lụa, kéo tơ với các sản phẩm phong phú, đa dạng như lụa trắng, lụa vàng, the, lĩnh, lượt, luạ hoa, sồi, nhiễu, đoạn, vải nhỏ, vải trắng, vải hoa, vải thô, vải sợi đôi, vải sợi ba Nghề làm đồ gỗ, nghề làm giấy và khắc bản in, nghề làm chiếu, nghề thuộc da, nghề làm đường, nghề làm quạt, lọng, nghề sơn, nghề làm hương, nghề nhuộm, làm nón,nghề đúc đồng, khảm trai, chạm vàng bạc cũng tăng cường hoạt động, sản xuất ra nhiều mặt hàng khác nhau, phục vụ cuộc sống.
	Các làng chuyên môn đã xuất hiện trong các thế kỷ trước (XIV - XV) thì nay đã tăng thêm khá nhiều. Nghề làm gốm vốn là một nghề truyền thống, phát triển ở nhiều nơi trong nước và nổi lên các làng gốm danh tiếng như Bát Tràng, Thổ Hà, Hương Canh, Vân Đình, Đình Trung, Hàm Rồng, Phù Lãng, Mỹ Thiện, Phú Khang, Biên Hòa Số lượng và chất lượng các sản phẩm gốn tăng lên rất nhiều, hình ảnh trang trí trên các dồ gốm ngày càng tinh xảo, đẹp mắt, men có nhiều màu, nhiều loại. Bát đĩa sứ, gốm tráng men của người Việt trở thành một hàng hóa rất được thương nhân nước ngoài ưa chuộng, thậm chí dùng làm mẫu cho nghề gốm nước mình.
Hầu hết các làng đều có nghề kéo tơ dệt lụa. Giáo sĩ A. đơ Rốt nhận xét "Đàng Trong rất nhiều tơ, nhân dân dùng cả tơ để làm lưới đánh cá", thương nhân Bori cũng viết, ở Đàng Trong "có rất nhiều tơ lụa, đến nỗi những người lao động và hạ lưu dùng thường xuyên, hàng ngày". Ơ Đàng Ngoài, nổi tiếngcác làng La, "Hà Tây quê lụa", các xã Hạ Hội, Thiên Mỗ, Y La, Trung Thụy và Đại Phùng có tài dệt lụa, trìu, lĩnh, là. Thăng Long và Phú Xuân là hai trung tâm dệt truyền thống với các phường Yên Thái, Bưởi, Trích Sài,Trúc Bạch, Nghi Tàm, Thành Công và Sơn Điền, Dương Xuân, Vạn Xuân "Thăng Hoa, Điện Bàn biết dệt vải lụa, vóc, đoạn, lĩnh, là hoa, màu khéo đẹp không kém Quảng Đông". 
Nghề làm đường đặc biệt phát triển ở Đàng Trong như châu Xuân Đài, xã Đông Phiên (Quảng Nam), Quảng Ngãi.
Nghề rèn phổ biến ở nhiều nơi, chủ yếu để phục vụ nhu cầu chế tạo công cụ sản xuất hay vật dụng gia đình của nhân dân. Các làng nổi tiếng có Lỗ Xá, Cẩm Đường (Hải Dương), Dị Sử, Bạch Sam ( Mỹ Văn - Hưng Yên), đa Hội ( Đông Anh - Hà Nội), Vân Chàng ( Nam Hà), Nho Lâm (Nghệ An), Trung Lương (Hà Tĩnh), Hiền Lương, Phú Bài (Thừa Thiên)
Nghề làm giấy cũng phát truển rộng khắp vào các thế kỷ XVII - XVIII. Các làng Phù Định, Yên Thái (Hà Nội), Đốc Sở (Thừa Thiên), Châu Khê (Bắc Ninh), Đại Phú (Quảng Bình) Người ta sản xuất được các loại giấy khác nhau: giấy bổi, giấy lệnh, giấy trung, giấy vàng, giấy lục lộ, giấy thanh dương, giấy moi
Công việc khai thác hầm mỏ thời kỳ này phát triển nhanh chóng, đặc biệt ở Đàng Ngoài như mỏ đồng ở Tụ Long (Tuyên Quang), Tống Tinh, Vụ Nông, Sảng Mộc, Liêm Tuyền (Thái Nguyên), Trình Lạn, Ngọc Uyển (Hưng Hóa), Hoài Viễn (Lạng Sơn) Mỏ bạc ở Nam Xưởng, Long Sinh (Hà Giang), Mỏ vàng ở Kim Mã, Tam Lộng (Thái Nguyên), rải rác ở một số tỉnh Đàng Trong như Thừa Thiên, Bình Định, Phú Yên, Quảng Nam. Mỏ kẽm ở Côn Minh (Thái Nguyên), Mỏ thiếc ở Vụ Nông (Thái Nguyên), mỏ sắt ở Phú Bài (Thừa Thiên), Bố Chính (Quảng Bình) Kim lọại khai thác được trở thành một nguồn lợi cho thương nhân, phục vụ cho việc phát triển một số ngành thủ công nghiệp như đúc tiền, đúc súng đạn, làm đồ trang sức và các vật dụng hàng ngày của nhân dân. Mặt khác, do tính chất công việc, ở những nơi khai mỏ đã hình thành một phương thức sản xuất tập trung, thuê mướn có tính tư nhân.
Nhìn chung, thủ công nghiệp nhân dân ở các thế kỷ XVI - XVIII vừa mở rộng, vừa phát triển, đáp ứng ở một mức độ nhất định nhu cầu của nhân dân trong nước và nhu cầu của thương nhân nước ngoài.
2. Sự phát triển của đô thị và các trung tâm buôn bán địa phương:
	Thế kỷ XVI - XVIII chứng kiến một thời kỳ phát triển khá rầm rộ của thương nghiệp . Một mặt do nhu cầu thoát thỏi sự gò bó của nông nghiệp cũng như do sự phát triển tư thân của nó, do đièu kiện dao thông đi lại thuận lợi hơn trước , do nhu cầu của cuộc sống hàng ngày tăng lên nên sư chao đổi hàng hóa ngày càng cần thiêts .
	Mặt khác sự hình thành của luồng dao lưu buôn bán quốc tế tác động mạnh mẻ đến các vùng lâu nay xa cách dóng kín , và làm cho nhu cầu hàng hóa đặc sản địa phương tăng lên không ngừng . bên cạnh đó một thời nhà thanh thực hiện bế quan tỏa cảng buộc các thương nhân Trung Quốc cung như thương nhân nươc ngoài khác phải dồn sang Việt Namtất cả nhưng điều đó vừa làm cho việc buôn bán với nước ngoài phát triển vừa làm cho nội thương thêm nhộn nhịp .
	Buôn bántrong nước : trước hết là sự xuất hiện các chợ ở địa phương . hầu như mỗi làng đều có chợ hoặc các cụm làng chia phiên trong tuần để họp chợ . mỗi huyện có khoảng 14- 22 chợ làng , chợ chùa, chợ huyện , các làng thủ công chuyên nghiệp thường có chợ riêng . nhiều chợ lớn nổi tiếng trong vùng như chợ Lim , chợ Nành, Châu Cầu, Bình Vọng, Phương Đình , Bí Giang , Lâm Xá , Trạo Hà , An Lâm  '' la nơi người và hàng hóa tụ họp đông đúc '' ,'' phố Kỳ Lừa buôn bán đông đúc '' , chợ Gia Hội , chợ An Cựu , Đại Lộc , Diên Sinh , Trà Quang , An Thái , Vĩnh Thế , Phú Thịnh , Yên Lương , chợ Phủ Thiên Trường , chợ Côi Sơn , chợ Kỳ Bố , Hội Xuyên , Đông Am , Hàm Giang , Đại Phùc , Phú Xá , Ba Đồn , chợ Nghèn , chợ Cày , chợ Vực , chợ Nài , chợ Vĩnh , Đô Lương , Sóc , Bảo Lân , Dương Xá, Cầu Quan , chợ Sen , chợ Du Trường 

File đính kèm:

  • docKINH TE HANG HOA.doc
Bài giảng liên quan