Đề tài Vận dụng kiến thức lịch sử, địa lý vào giảng dạy tác phẩm văn học trong trường phổ thông

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:

Trong quá trình giảng dạy tác phẩm văn học trong nhà trường, chúng tôi nhận thấy học sinh còn chưa vững một số kiến thức ở nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có kiến thức Lịch sử và Địa lí. Điều này làm cho các em tiếp cận tác phẩm Văn học khó khăn hơn. Nhằm giúp học sinh học Văn ngày càng tốt hơn, đạt thành tích cao hơn trong học tập, người viết đã chọn đề tài: Vận dụng kiến thức lịch sử, địa lý vào giảng dạy tác phẩm văn học trong trường phổ thông. Chọn đề tài này, người viết cũng hy vọng sẽ góp phần nâng cao sự hiểu biết của học sinh, giúp cho kho kiến thức của các em phong phú hơn, làm cho các em thích học Văn hơn. Bởi đến với Văn học các em sẽ được biết nhiều hơn.

2. Phạm vi, địa điểm thực hiện đề tài:

Trong nhà trường, ở cấp THPT, học sinh được làm quen với nhiều tác phẩm Văn học khác nhau, nhưng không phải tác phẩm nào cũng liên quan đến kiến thức Lịch sử, Địa lí. Vì vậy người viết xin chọn một số tác phẩm có liên quan để trình bày: Ai đã đặt tên cho dòng sông?, Người lái đò sông Đà, Phú sông Bạch Đằng, Đại cáo bình Ngô, . Những bài dạy này được áp dụng giảng dạy trong chương trình Ngữ văn lớp 12, 10 tại trường THPT Lưu Văn Liệt.

 3. Phương pháp thực hiện:

Từ một số tác phẩm Văn học có liên quan đến kiến thức Lịch sử, Địa lí, người viết sẽ chỉ ra sự cần thiết của việc hỗ trợ lẫn nhau giữa các môn học. Người viết cũng mạn phép trình bày những kiến thức Lịch sử, Địa lí cần thiết cho tác phẩm Văn học. Sau đó người viết sẽ tham khảo ý kiến người học về sự cần thiết của các kiến thức Lịch sử, Địa lí trong việc học tác phẩm Văn học và đánh giá kết quả đạt được sau khi thực hiện.

 

doc16 trang | Chia sẻ: baobinh26 | Lượt xem: 816 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Vận dụng kiến thức lịch sử, địa lý vào giảng dạy tác phẩm văn học trong trường phổ thông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút TẢI VỀ ở trên
ng cho rằng sông Hương là đứa con của rừng già với một tâm hồn tự do và trong sáng, để rồi rừng già đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái của mình để khi ra khỏi rừng, sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở.
Với đôi mắt khảo sát nghiêm túc của nhà địa lí có một tầm văn hoá sâu rộng, kết hợp vốn ngôn từ nghệ thuật phong phú mượt mà giàu chất thi họa, Hoàng Phủ Ngọc Tường tái hiện thủy trình của sông Hương từ vùng trung du trở xuống, nó liên tục chuyển dòng, theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó. Nhà văn đã đặt sông Hương vào giữa cảnh quan núi đồi, lăng tẩm, bãi biển vùng ngoại ô tây-nam thành phố Huế, gương mặt Hương Giang trong xanh phẳng lặng tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố, sớm xanh, trưa vàng, chiều tím. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhìn dòng sông Hương như một chủ thể có ý thức góp phần tôn vinh thêm vẻ đẹp của xứ Huế. Và trước khi về với Huế, sông Hương trôi lặng thầm giữa một vùng không gian Bốn bề núi phủ mây phong. Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng vạn niên.
Giữa đám quần sơn lô xô, ở phía tây thành Huế, nơi dành cho giấc ngủ ngàn năm của các bậc vua chúa thời Nguyễn, sông Hương hiện ra với vẻ đẹp trầm mặc như triết lí, như cổ thi kéo dài mãi giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà. Đến khi sông Hương đổ vào thành phố tương lai của nó, nó đã kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam-đông bắc..., nó đã thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như vành trăng non. Nhà văn đã dành cho sông Hương một tình cảm trìu mến, thân thương. 
Có như vậy, ông mới liên tưởng trạng thái sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang cồn Hến như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Đôi mắt sâu sắc của nhà văn đã nhìn ra mối quan hệ biện chứng giữa dòng sông Hương mềm mại với con người xứ Huế. Sông Hương dịu dàng, duyên dáng như đã góp phần hình thành nên tính cách nết na, ý nhị của người con gái cố đô.
Với một trình độ văn hoá uyên bác, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã so sánh vẻ đẹp của sông Hương với nhiều dòng sông nổi tiếng thế giới như sông Xen của Pari, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét, sông Nê-va của Nga,... Từ đó mà ông đã tôn vinh vẻ đẹp độc đáo của dòng sông Hương vào buổi đêm về, vẫn lập lòe trong đêm sương, những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được. Nhà văn quý điệu chảy lững lờ của sông Hương qua thành Huế. Ông cho rằng Đây là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế, có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng bảy... chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng.
Có thể nói Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn hoá Huế, ông không chỉ nhìn sông Hương trôi ở trong thì hiện tại, ngày ngày mang phù sa và nguồn nước ngọt trao tặng cho cánh đồng Châu Hóa, cho cuộc sống người dân xứ Huế; mà ông còn nhìn sông Hương như là khởi nguồn cho những giá trị tinh thần lịch sử.
Câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã gợi lên trong miền tình cảm của bạn đọc nhiều băn khoăn về một dòng sông ngỡ là quá quen, hoá ra lại có nhiều bí ẩn cần được khám phá thêm. Có như vậy, chúng ta mới hiểu sâu sắc hơn về quê hương đất nước, tự hào hơn về giang sơn cẩm tú Việt Nam.
3.3 Dạy về Sông Đà: còn gọi là sông Bờ hay Đà Giang là phụ lưu lớn nhất của sông Hồng. Khởi nguồn từ độ cao 1.500m tại núi Nguỵ Sơn của tỉnh Vân Nam, Trung Quốc chảy theo hướng tây bắc - đông nam để rồi nhập với sông Hồng ở Phú Thọ.
Sông Đà dài 910 km (có tài liệu ghi 983 km), diện tích lưu vực là 52.900 km². Ở Trung Quốc, sông có tên là Lý Tiên Giang, do hai nhánh Bả Biên Giang và A Mặc Giang hợp thành. Trong một số tiếng châu Âu, sông Đà được dịch là sông Đen (tiếng Anh: Black River; tiếng Pháp: rivière Noire).
Đoạn ở Trung Quốc dài khoảng 400 km từ núi Nguy Bảo ở huyện tự trị người Di người Hồi Nguy Sơn phía nam châu tự trị châu tự trị dân tộc Bạch Đại Lý chảy theo hướng tây bắc-đông nam qua Phổ Nhĩ.
Đoạn ở Việt Nam dài 527 km (có tài liệu ghi 543 km). Điểm đầu là biên giới Việt Nam-Trung Quốc tại huyện Mường Tè (Lai Châu). Sông chảy qua các tỉnh Tây Bắc Việt Nam là Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Phú Thọ (phân chia huyện Thanh Thủy, Phú Thọ với Ba Vì, Hà Nội). Điểm cuối là ngã ba Hồng Đà, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ.
Đoạn đầu sông trên lãnh thổ Việt Nam, sông Đà còn được gọi là Nậm Tè (sông Thật). Các phụ lưu trên lãnh thổ Việt Nam gồm Nậm Na (ở tả ngạn), Nậm Mốc (ở hữu ngạn). Thông thường, nước sông trong xanh và chỉ ngầu đỏ khi mùa mưa tới. 
Với diện tích lưu vực 52.500km2, sông Đà cung cấp 31% lượng nước và là chi lưu lớn nhất của hệ thống sông Hồng. 
Do độ dốc lớn và sức nước chảy xiết, sông Đà được các nhà nghiên cứu xếp vào loại "sông hung dữ bậc nhất ở Đông Dương", làm nên 50% lũ lụt sông Hồng, nhưng cũng là con sông có trữ năng ở lưu vực khoảng 59,3 tỉ kwh. 
Sông Đà đã góp phần vào sản lượng điện của Nhà máy thuỷ điện Hoà Bình và trong tương lai với Nhà máy thuỷ điện Tạ Bú thuộc tỉnh Sơn La.
Trong 232km sông Đà chảy trên địa phận Lai Châu có 170 thác và 130 ghềnh, trong đó đoạn chảy qua Mường Tè là 120km với hơn 200 thác, ghềnh. 
Dọc hai bờ sông có những cánh rừng còn nguyên vẻ hoang sơ, là nơi cư trú lý tưởng của hàng trăm loài chim, thú quý hiếm. 
Sông Đà đã nhiều lần chảy vào trong thi ca. Thơ của Chánh sứ sơn phòng kiêm Tuần phủ Hưng Hoá Nguyễn Quang Bích (1832 - 1890) từng viết: 
Chúng thuỷ giai đông tẩu
Đà giang độc bắc lưu
(Mọi con sông đều chảy về hướng đông
Riêng sông Đà chảy theo hướng bắc).
Nếu có dịp du ngoạn sông Đà, bạn sẽ được chiêm ngưỡng vẻ kỳ tú giang san ở nơi góc gió trăng treo với phiêu diêu khói sóng và tìm hiểu về thiên tình sử "Xống chụ xon xao" (dân tộc Thái).... Và những kiến thức này sẽ giúp giáo viên dạy Văn dạy tốt hơn, học sinh hiểu rõ hơn thêm yêu thích môn Văn hơn, bởi vì khi học Văn các em cũng sẽ có thêm một số kiến thức của các môn học khác.
4. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:
Học sinh thường than rằng Văn dài khó học, đôi khi kiến thức xa sự thật. Qua bài viết này, chúng ta dễ dàng nhận thấy kiến thức Văn học liên quan rất lớn đến Lịch sử, Địa lý Việt Nam. Điều đó cũng chứng minh nội dung Văn học là có thật, nó thiết thực trong đời sống con người chứ không xa xôi, huyền ảo.
Để giúp học sinh có cái nhìn khác về môn Văn, thích thú hơn với việc học Văn, người viết này đã lồng ghép nội dung đề tài này trong các tiết đọc văn để giúp học sinh nắm vững kiến thức hơn. Qua đó, tôi nhận thấy rằng các em say mê hơn khi đọc tác phẩm văn học, các em cũng nắm vững kiến thức hơn bởi kiến thức môn học này lại giúp củng cố kiến thức môn học khác có liên quan. Do vậy điểm số kiểm tra đọc văn cũng cao hơn. Mỗi lớp chỉ có một vài học sinh dưới trung bình. Bởi khi học các em được liên tưởng nhiều hơn, nhớ lâu hơn chứ không học vẹt, học rồi quên ngay.
Tất nhiên kết quả đạt được như trên là nhờ rất nhiều yếu tố. Chẳng hạn như sự chuyên cần của học sinh, sự hợp tác tốt của các em với giáo viên trong giờ học, nhưng chúng ta cũng không thể phủ nhận việc nắm vững kiến thức của các môn học khác có liên quan của giáo viên Văn đã góp phần không nhỏ vào việc hình thành kiến thức cho học sinh, giúp các em hứng thú hơn trong việc tiếp cận tác phẩm văn học. Và quan trọng hơn hết là góp phần đổi mới phương pháp dạy và học theo hương tích cực, nâng cao được chất lượng bài làm của học sinh, tạo sự chuyển biến về nhận thức của học sinh trong việc học Văn, tránh được xu hướng học lệch sang các môn tự nhiên như hiện nay.
5. KHẢ NĂNG NHÂN RỘNG
 Để thực hiện được điều này, trước hết giáo viên phải chịu khó tìm và nghiên cứu tài liệu của các môn học khác có liên quan; Các kiến thức được vận dụng cần phải chính xác, rõ ràng; Luôn luôn đảm bảo tính vừa sức của học sinh, không nên ôm đồm, quá tải trong việc vận dụng kiến thức môn học khác vào giảng dạy Văn học. 
Việc dạy học theo nguyên tắc liên môn đòi hỏi giáo viên Văn không chỉ có kiến thức vững chắc về bộ môn mà còn phải nắm vững nội dung các môn học khác được giảng dạy ở trường phổ thông, trước hết là Lịch sử, Địa lí,... Học sinh cũng phải có vai trò tích cực, chủ động trong việc học tập. Vì ở đây, các em huy động nhiều kiến thức đã học để hiểu biết sâu sắc, toàn diện một sự kiện, một vấn đề. Các em được củng cố, ôn tập, tổng hợp các kiến thức ở mức cao hơn và biết vận dụng một cách thông minh vào học tập. Kiến thức môn này sẽ hỗ trợ cho môn kia, nhờ đó học sinh có thể nhận thức một cách rõ ràng hơn, sâu sắc hơn.
Nếu thực hiện tốt những điều lưu ý trên, tôi khẳng định rằng mọi giáo viên Văn đều có thể áp dụng phương pháp này vào quá trình giảng dạy và sẽ thu được kết quả như mong muốn.
PHẦN KẾT LUẬN
Việc kiến thức Văn học liên quan đến kiến thức các môn học khác đòi hỏi người giáo viên Văn phải am tường nhiều lĩnh vực khác nhau, thậm chí đôi khi đối lập nhau. Chẳng hạn trong bài tập văn cũng yêu cầu học sinh hiểu khái niệm đường thẳng, đường tròn trong toán học, những thuật ngữ chuyên ngành của sinh học, thậm chí phải biết ngữ pháp tiếng nước ngoài để so sánh với ngữ pháp tiếng Việt, giúp học sinh khắc sâu kiến thức hơn. Chính vì vậy, có khi nhờ học Văn mà các em được củng cố thêm kiến thức của các môn học khác.
Chúng tôi nghĩ rằng học sinh đến trường là để học thì dù học của ai, học môn nào thì mục đích cuối cùng của các em cũng đã đạt được. Và những người làm công tác giáo dục như chúng ta cũng sẽ cảm thấy vui hơn khi đem đến kiến thức bổ ích cho người học. 
Hãy mạnh dạn đổi mới, cứ thể nghiệm, chúng ta sẽ có được nhiều hơn. Thử vẫn hơn là không làm gì cả!
Với đề tài này, tôi chỉ muốn chia sẻ đôi điều mà tôi cho là thiết thực trong việc giảng dạy. Tất nhiên con đường đi đến thành công còn cần nhiều hơn nữa những kinh nghiệm thực tiễn, bản thân người viết còn phải học hỏi rất nhiều những kinh nghiệm quý báu của quý thầy cô đi trước. Rất mong nhận được những đóng góp chân tình và sự chia sẻ của quý đồng nghiệp.

File đính kèm:

  • docVan dung kien thuc Lich Su va Dia li de giang day tac pham Van hoc.doc