Giáo án Ngữ văn Lớp 11 - Tiết 20: Bài ca ngắn đi trên bãi cát (Cao Bá Quát)
1. Thời đại
- Thời đại Cao Bá Quát sống là xã hội không còn minh quân, xã hội chỉ sản sinh ra phường danh lợi an phận, ngủ quên trong vinh hoa phú quý.
- “ Sa hành đoản ca” thể hiện tâm trạng bi phẫn của kẻ sĩ trước đường đời bế tắc, mịt mù đồng thời thể hiện sự dằn vặt, thức tỉnh của kẻ sĩ khi nhận ra những khó khăn trên đường công danh.
2. Hình tượng bãi cát và con người đi trên bãi cát
- Bãi cát và con đường dài là biểu tượng cho con đường đi tìm chân lí xa xôi, mịt mù, muốn đến được đích phải đầy nhọc nhằn
- Đi trên bãi cát ấy là hình ảnh con người vất vả, nhọc nhằn, cô độc. “Đi một bước lùi một bước, lữ khách nước mắt rơi”
- “ Không học được tiên giận khôn vơi” Nỗi chán nản của tác giả vì tự mình phải hành hạ thân xác của mình theo đuổi công danh.
- “ Xưa nay tỉnh bao người” sự cám dỗ của cái bả công danh đối với người đời. Tác giả đã nhận thấy rõ tính chất vô nghĩa của lối học khoa cử, của con đường công danh theo lối cũ
- “ Bãi cát dài làm chi trên bãi cát?” Tâm trạng bế tắc của người đi đường, chưa tìm thấy lối thoát trên đường đời. Nỗi niềm bi phẫn cực độ “ anh đứng làm chi trên bãi cát?”
Vẻ đẹp của nhân cách, của lí tưởng sống ở một con người ý thức được bản thân mình trong cuộc đời.
Tiết: 20 ( lớp 11a5, 11a6 ), 18 ( lớp 11a2 ) Ngày soạn: 9 /10 / 07 BÀI CA NGẮN ĐI TRÊN BÃI CÁT ( Sa hành đoản ca ) – Cao Bá Quát – Mục tiêu bài học Giúp Hs: Nắm được trong hoàn cảnh nhà Nguyễn trì trệ, bảo thủ. Cao Bá Quát tuy vẫn đi thi nhưng đã tỏ ra chán ghét con đường mưu cầu danh lợi tầm thường. Bài ca biểu lộ tinh thần phê phán của ông đối với học thuật và sự bảo thủ, trì trệ của chế độ nhà Nguyễn nói chung, góp phần lí giải hành động khởi nghĩa của ông về asu vào năm 1854 Hiểu được mối quan hệ giữa nội dung nói trên và hình thức nghệ thuật của bài thơ cổ về nhịp điệu, hình ảnh, Chuẩn bị. Gv: Sgk, Sgv, Stk, soạn giảng Hs: Đọc, nghiên cứu trước bài ở nhà, soạn bài Tiến trình bài dạy Ổn định lớp Kiểm tra bài cũ Nội dung thơ văn của Nguyễn Khuyến Bài mới Hoạt động của Gv - Hs Nội dung cần đạt Gv yêu cầu Hs đọc tiểu dẫn ở sgk, rút ra một vài nét chính về cuộc đời Cao Bá Quát. Gv nói thêm: Thuở thiếu thời, CBQ nổi tiếng là thần đồng, lúc nhỏ học với cha, lớn lên học với các bậc danh nho đương thời. Tương truyền lúc mới trên mười tuổi, CBQ đã làm đủ các thể văn và tỏ ra xuất sắc. Nmă 1831, CBQ đỗ cử nhân, nhưng mấy lần vào kinh thi Hội đều bị phạm trường quy nên bị đành hỏng. Năm 1841 ông vào làm việc ở bộ Lễ tại kinh đô Huế. Một lần ông giữ chức sơ khảo trường thi Huế, thấy một bài văn hay nhưng bị phạm huý, nên lấy muội đèn chữa hộ, việc bại lộ ông bị kết án xử chém, sau được xét lại, giam ba năm nhưng rồi được tạm tha, cho đi công cán ở Inđônêxia, lấy công chuộc tội. Năm 1847, ông làm việc ở viện hàn lâm, chuyên sưu tầm, xếp thơ văn cho vua đọc. Năm 1853 – 1854 các tỉnh Sơn Tây, Bắc Ninh bị hạn hán , nhân dân đói khổ, lòng người bất mãn với chính quyền phong kiến, ông tổ chức cuộc khởi nghĩa ngay trên đất Mĩ Lương, cuộc khởi nghĩa kéo dài được mấy tháng thì bị triều đình dẹp tan. CBQ hi sinh, triều đình Tự Đức ra lệnh tru di tam tộc bà con nội ngoại của ông, sách vở của ông bị đốt huỷ. Gv gợi ý hoàn cảnh ra đời của bài thơ. Gợi ý: CBQ thi đỗ cử nhân năm 1831, tại trường thi Hà Nội. Để thi tiến sĩ, cần vào kinh đô Huế. Do vậy, ông đã nhiều lần đi Huế để thi Hội (nhưng đã không đỗ tiến sĩ). Hành trình từ Hà Nội vào Huế qua nhiều tỉnh miền trung như Quảng Bình, Quảng Trị là vùng có nhiều bãi cát trắng mênh mông. Ta thấy hình ảnh những cồn cát miền Trung đã sớm đi vào thơ ca. Miền trung, nhất là Quảng Bình, Quảng Trị, là dãi đất hẹp, có thể bằng mắt thường nhìn thấy một phía là dãy Trường Sơn, một phía là biển đông. Không nghi ngờ gì nữa, hình ảnh bãi cát dài, sóng biển và núi là những hình ảnh có thực đã gợi ý cho tác giả sáng tác bài thơ. Hình ảnh con đường “cùng đồ” trong bài thơ có nghĩa bế tắc đường đời của một trí thức.Con đường trí thức của nho sĩ thuở xưa không có gì khác hơn là học, thi, làm quan. Một sự kiện nổi bật cho thấy, CBQ bất bình với học thuật, khoa cử nhà Nguyễn. Một phương diện nữa cũng cần chú ý là người VN nói chung và CBQ nói riêng ở giữa TK XIX đã tiếp xúc với văn hoá phương Tây. Họ không thể không suy nghĩ và so sánh về cái học của phương Đông và Tây. Gv nói rõ hơn về đặc điểm của thể loại. Bài thơ theo cổ thể có phần tự do về kết cấu, vần, nhịp điệu. Bài thơ có tình cảm phóng túng, lời dài mà đa dạng, không bị gò bó thì gọi là ca; nhịp điệu nhanh, gấp khẩn trương, lưu loát mà không bị ngưng trệ thì gọi là hành, bài nào kiêm cả hai đặc điểm thì gọi là ca hành. Pv. Em có hiểu biết gì về thời đại của Cao Bá Quát? Thời đại Cao Bá Quát sống là xã hội không còn minh quân, xã hội chỉ sản sinh ra phường danh lợi an phận, ngủ quên trong vinh hoa phú quý. Những người có lí tưởng như Cao Bá Quát khi chưa tìm được con đường mới có ý nghĩa họ rơi vào trạng thái cô đơn bế tắc. “ Sa hành đoản ca” thể hiện tâm trạng bi phẫn của kẻ sĩ trước đường đời bế tắc, mịt mù đồng thời thể hiện sự dằn vặt, thức tỉnh của kẻ sĩ khi nhận ra những khó khăn trên đường công danh. Pv. Hình ảnh bãi cát và con người đi trên bãi cát được miêu tả như thế nào qua 4 câu thơ đầu? Pv. Hình tượng bãi cát dài, và hình tượng con đường được nhắc đi nhắc lại trong tác phẩm có ý nghĩa gì? Pv. Chỉ ra nội dung và sự liên kết 6 câu thơ “ không họctỉnh bao người” Giảng.Nhận định mang tính khái quát về nhưng kẻ ham danh lợi đều phải chạy ngược chạy xuôi nhọc nhằn, được nhà thơ minh hoạ bằng hình ảnh người đời thấy ở đâu có quán rượu ngon đều đổ xô đến, mấy ai tỉnh táo thoát khỏi sự cám dỗ của rượu. Danh lợi cũng là một thứ rượu dễ làm say người. Sáu câu thơ này chuẩn bị cho kết luận của tác giả: cần phải thoát ra khỏi cơn say danh lợi vô nghĩa. Pv. Những câu thơ tiếp thể hiện tâm trạng gì của người đi đường? Giảng. Gọi nó là đường cùng, nhìn thấy phía trước là đường ghê sợ, tác giả đã thể hiện cái mâu thuẩn chưa thể giải quyết trong tâm trạng của mình. Đi tiếp một cách khó nhọc hay từ bỏ nó? nếu đi mình sẽ tầm thường như phường danh lợi xưa nay, nếu bỏ cuộc, chẳng biết rẽ hướng nào vì “phía Bắc núi Bắc núi muôn trùng, phía Nam núi Nam sóng dào dạt” Mọi ngã đều chắn hướng, dưới chân là bãi cát và con đường ghê sợ, biết làm sao đây? Bài thơ kết lại trong một nỗi niềm bi phẫn cực độ: “Anh đứng làm chi trên bãi cát?” Một sự bỏ cuộc, từ chối vì ông biết trước con đường ấy sẽ dẫn đến ngõ cụt. Sự bỏ cuộc thật đáng trân trọng, cái bế tắc tuyệt vọng nhưng không làm họ nhỏ bé, hèn mọn, từ bỏ cái mịt mù vô nghĩa để tìm lại từ đầu một con đường đi đúng để thực hiện lí tưởng Pv. Chỉ ra một vài biện pháp nghệ thuật trong bài thơ và nêu tác dụng của chúng. - “Khách”: tự tách mình thành khách thể để có thể nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan về con đường công danh. Khi xưng “anh”: ông đặt mình trong thế đối thoại với chính mình để tìm lối thoát; “ ta”: là chủ thể trữ tình, vị trí của một người đang vất vả trên đường danh lợi để giãi bày tâm sự của người trong cuộc Tìm hiểu chung Tác giả. CBQ ( 1809? – 1855 ), tự Chu Thần, hiệu Cúc Đường, Mẫn Hiên, người làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, Bắc Ninh ( nay là Long Biên, Hà Nội. Là một nhà thơ có tài năng và bản lĩnh Thơ văn ông bộc lộ thái độ phê phán mạnh mẽ chế độ phong kiến trì trệ, bảo thủ và chứa đựng tư tưởng khai sáng, có tính chất tự phát, phản ánh nhu cầu đổi mới của xã hội VN giai đoạn giữa TK XIX. Bài thơ Hoàn cảnh sáng tác. Thể loại: Thể ca hành Phân tích Thời đại Thời đại Cao Bá Quát sống là xã hội không còn minh quân, xã hội chỉ sản sinh ra phường danh lợi an phận, ngủ quên trong vinh hoa phú quý. “ Sa hành đoản ca” thể hiện tâm trạng bi phẫn của kẻ sĩ trước đường đời bế tắc, mịt mù đồng thời thể hiện sự dằn vặt, thức tỉnh của kẻ sĩ khi nhận ra những khó khăn trên đường công danh. Hình tượng bãi cát và con người đi trên bãi cát Bãi cát và con đường dài là biểu tượng cho con đường đi tìm chân lí xa xôi, mịt mù, muốn đến được đích phải đầy nhọc nhằn Đi trên bãi cát ấy là hình ảnh con người vất vả, nhọc nhằn, cô độc. “Đi một bước lùi một bước, lữ kháchnước mắt rơi” “ Không học được tiêngiận khôn vơi”" Nỗi chán nản của tác giả vì tự mình phải hành hạ thân xác của mình theo đuổi công danh. “ Xưa naytỉnh bao người”" sự cám dỗ của cái bả công danh đối với người đời." "Tác giả đã nhận thấy rõ tính chất vô nghĩa của lối học khoa cử, của con đường công danh theo lối cũ - “ Bãi cát dàilàm chi trên bãi cát?” " Tâm trạng bế tắc của người đi đường, chưa tìm thấy lối thoát trên đường đời._ Nỗi niềm bi phẫn cực độ “ anh đứng làm chi trên bãi cát?” ² Vẻ đẹp của nhân cách, của lí tưởng sống ở một con người ý thức được bản thân mình trong cuộc đời. Nghệ thuật Thay đổi cách xung hô. (Khi thì “ khách”, khi thì “ta”, khi thì “anh”)" nhiều trạng thái tâm trạng, giúp tác giả nói một cách thuyết phục hơn về vấn đời danh lợi trong đời. Bài thơ sáng tác theo lối thơ cổ, câu dài, ngắn xen nhau, vần thơ bằng trắc phối nhịp nhàng, tiết tấu phong phú, giọng điệu khi thì bi tráng, khi thì u buồn Nhiều câu hỏi, câu cảm thán " thể hiện nhiều trạng thái tâm trạng Củng cố Hình tượng bãi cát và con người đi trên bãi cát. Tâm trạng của Cao Bá Quát qua bài thơ. ? Vì sao Cao Bá Quát lại khởi nghĩa chống lại nhà Nguyễn? Dặn dò Học bài cũ Soạn bài “Lẽ ghét thương” Rút kinh nghiệm:
File đính kèm:
- bai ca ngan di tren bai cat.doc