Hàn mạc tử một tư duy thơ độc đáo

Con người là một con vật biết chế tạo công cụ và biết chôn cất nhau khi chết (R.Garaudy)

 Tuyệt vời là khúc thương tâm /Biết bao tiếng nấc thành ngâm muôn đời. (A.Musset)

 ". Mai sau, những cái tầm thường, mực thước sẽ biến đi và còn lại của cái thời kỳ này, chút gì đáng kể đó là Hàn Mặc Tử" (Chế Lan Viên - Tạp chí Ngày mới, ngày (23-11-1940) và Hàn Mặc Tử là "người đầu tiên làm cuộc cách mạng văn chương ở thế kỷ XX" (Trần Thanh Mại, Hàn Mặc Tử, Tân Việt, 1940). Những dòng chữ như khắc trên bia mộ kia ngày càng được thời gian mài sáng.

Bài - viết - hành - hương - đến - với Hàn Mặc Tử này chỉ là một chìa khóa để đi vào tòa lâu đài nghệ thuật của thơ ông, khẳng định lại những điều mà bạn bè ông bằng trực giác đã khẳng định.

TÍNH TRỮ TÌNH

Thơ mới là sự tiếp nối một cách đứt đoạn dòng thơ trữ tình truyền thống - con sông cái trong hệ thống thủy văn văn học Việt Nam. Nếu Tản Đà, nhà thơ - nhà nho tài tử - kiện tướng cuối cùng, chạy đến hụt hơi mà vẫn không vượt qua ngưỡng Thơ mới, thì Hàn Mặc Tử là hiện thân sinh động cho sự tiếp tục cuộc chạy đua tiếp sức đó. Và điều cần thiết để bứt lên phía trước là lúc chạy khởi động ở cuối chặng đường thơ cổ điển, Hàn Mặc Tử dường như đạt tới tốc độ của Tản Đà.

 

doc9 trang | Chia sẻ: baobinh26 | Lượt xem: 953 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hàn mạc tử một tư duy thơ độc đáo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút TẢI VỀ ở trên
, số 179, năm 1971). Như vậy, trên bình diện cấu trúc tác phẩm, sáng tác của Hàn Mặc Tử, một cách vô thức, đã "minh họa" cho con đường cứu rỗi của Thiên Chúa giáo - nghệ thuật là chia toàn bộ sáng tạo của nhà thơ thành ba thời kỳ. Một là giai đoạn cổ điển với Lệ Thanh thi tập. Đây là sự hài hòa của Hàn Mặc Tử với chính mình và với xung quanh, tương ứng với thời thơ ấu của con người hay "thuở thiên đường" của nhân loại. Hai là giai đoạn lãng mạn, tượng trưng và siêu thực với Gái quê, Đau thương và một phần của Xuân như ý... Hài hòa bị phá vỡ. Con người bất ổn với chính mình và hoàn cảnh: đau khổ, mơ ước, điên dại... Nó tương ứng với thời kỳ trưởng thành, vấp váp, bệnh tật của con người và của nhân loại "mất thiên đường". Ba là, giai đoạn tân - cổ điển với một phần của Thượng thanh khí và toàn bộ Cẩm châu duyên. Sự hài hòa lại được tái lập, dĩ nhiên là trong mơ ước tôn giáo. Đau thương rũ bỏ. Con người được trở lại "thiên đường" của mình. Các tôn giáo Đông phương cũng đi tìm giải pháp cho đau thương. Phật giáo coi cuộc đời là bể khổ, mà nguồn gốc của đau thương la dục vọng. Cho nên diệt dục là con đường cứu khổ cứu nạn. Lão Tử thì đưa ra thuyết vô vi, sống theo tự nhiên thì sẽ chữa được những lầm lạc của người đời. Chỗ gặp nhau của những tôn giáo lớn - những tư tưởng lớn là ở đây. Hạt nhân triết học của những tôn giáolớn cũng là ở đây.
Tư duy tôn giáo còn là công cụ hữu hiệu để nâng cánh cho trực giác nghệ thuật tuyệt vời của thi nhân bay cao, bay xa vào cõi siêu hình. Nhà thơ có một cái nhìn vũ trụ trong tính toàn thể, tính siêu việtcủa nó với một cảm xúc tràn đầy.
"Mới hay cõi siêu hình cao tột bực
Giữa hư vô xây dựng bởi trăng sao
Xa lắm rồi, xa lắm, hãi nhường bao!...
Ai tới đó chẳng mê man thần trí
Toà châu báu kết bằng hương kỳ dị
Của tình yêu rung động bởi hào quang
Những cù lao trôi nổi xứ mênh mang
Sẽ quy tụ thâu về trong một mối
Và tư tưởng chẳng bao giờ chắp nối..."
Bức tranh vũ trụ được thi sĩ dùng trực giác để vẽ ra tưởng như đã gặp đâu đó trong một cuốn thiên văn hiện đại nào. Con người bay vào vũ trụ (cõi siêu hình cao tột bực), thoạt tiên còn có cảm giác cô đơn, nhỏ bé trước sự bao la (hãi nhường nào!), nhưng rồi thần bí mê man trước vẻ châu báu của vũ trụ, vũ trụ là thống nhất ("Những cù lao trôi nổi xứ mênh mang, Sẽ quy tụ thâu về trong một mối"), nên tư duy của con người, cái phản ánh của vũ trụ cũng mang tính thống nhất (" và tư tưởng chẳng bao giờ chắp nối"). Bài thơ cho thấy Hàn Mặc Tử đã đạt đến một tinh thần tôn giáo - vũ trụ (khái niệm của A.Einstein): đó là tính toàn thể của thế giới và tính nhất thể giữa con người và thế giới.
Hàn Mặc Tử thường hay quay trở về cội nguồn, với mùa xuân đầu tiên của trời đất và con người. Dường như ông tìm thấy ở đấy sự nhất thể tính nguyên sơ giữa con người và vũ trụ - căn nguyên của mọi nghệ thuật, châu báu mà con người đời sau đã đanh mất trong biển thời gian, và chỉ còn giống thi sĩ là cố công ngụp lặn, mò tìm:
"Thuở ấy càn khôn mới dựng lên
Mùa thơ chưa gặp tốt tươi lên
Người thơ phong vận như thơ ấy
Nào sẽ ra đời ngọc biết tên"
(Xuân đầu tiên)
Nhờ tinh thần tôn giáo - vũ trụ đó, các bài thơ Xuân của Hàn Mặc Tử (Mùa xuân chín, Xuân đầu tiên, Đêm xuân cầu nguyện) chẳng những giữ được vẻ trinh nguyên của đất trời, mà còn đợm một cảm giác huyền bí thiêng liêng của cuộc đời. Đó là ánh thiều quang khác lạ của thơ Hàn Mặc Tử so với thơ xuân của các thi sĩ cùng thời.
MÔ HÌNH VÀ SÁNG TẠO
So với thơ của các thi sĩ cùng thời như Xuân Diệu, Huy Cận, Vũ Hoàng Chương..., thơ Hàn Mặc Tử có một sự khác về chất. Dó là tư duy tôn giáo kết hợp nhuần nhuyễn với chất trữ tình trên cơ sở cái tôi cá nhân hiện đại. Tính ưu việt của "hợp chất" mới này thể hiện ở những khía cạnh sau: Một là, tư duy tôn giáo với tính hệ thống chặt chẽ của nó làm cho các yếu tố tượng trưng, cổ điển của thơ Đường , tượng trưng tôn giáo, lãng mạn, siêu thực... vốn rời rạc, lẻ tẻ trước đây kết thành một cấu trúc nghệ thuật hoàn chỉnh. Hai là con người cá nhân cá thể hiện đại kết hợp với con người siêu cá thể trung đại làm cho cái nhìn con người trong thơ Hàn Mặc Tử vừa có chiều sâu, thậm chí tầng sâu vô thức, vừa có chiều rộng, chiều phổ quát toàn nhân loại, đồng thời có chiều cao tâm linh. Hàn Mặc Tử đã phá vỡ con người nguyên phiến để tạo ra con người đa chiều kích. Con người với thi nhân, không chỉ là một, mà là hai, thậm chí vô số. Nếu Cao Bá Nhạ trong Tự tình khúc thấy "trong một mình bảy tám biệt ly", thì Hàn Mặc Tử còn thấy sự phân thân, hoá thân sinh động hơn:
"Bóng ai theo dõi bóng mình
Bóng nàng yêu tinh,
Nụ cười như tiếng vỡ pha lê"
Với cách nhìn con người từ bên trong như vậy, Hàn Mặc Tử báo hiệu sự ra đời của chủ nghĩa nhân văn mới, phi cổ điển. Ba là, yếu tố siêu thực và tôn giáo đã làm cho thơ Hàn Mặc Tử mang tính chất huyền bí của cuộc đời. "Điều đẹp nhất mà ta có thể cảm giácđược chính là cái khía cạnh huyền bí của cuộc đời. Đó là tình cảm sâu xa ở trong nôi của khoa học và nghệ thuật đích thực" (A.Einstein). Bốn là, tính trữ tình kết hợp với tư duy tôn giáo đã đẻ ra những hình tượng tân kỳ, như:
"Lụa trời ai dệt với ai giăng
Ai thả chim bay đến Quảng Hàn,
Và ai gánh máu đi trên tuyết ,
Mảnh áo da cừu ngắm nở nang..."
Từ mô hình trên, ở bình diện sáng tạo cụ thể, bước đổi mới đó của Hàn Mặc Tử được thể hiện bằng những biểu tượng nghệ thuật vừa độc đáo, vừa nhất quán. Đó là các ký hiệu - biểu đạt: trăng, hồn và máu.
Trăng là một mô típ, một biểu tượng của nhiều thề hệ thi sĩ Việt Nam. Trăng xuật hiện trong thơ thiền như một cái gì lạnh và tĩnh lặng tuyệt đối. Hơn nữa trăng lại thường sóng đôi với hình ảnh dòng nước chảy để biểu hiện quan niệm thiền hữu, không:
"Hữu không như thủy nguyệt
Vật trước hữu không không
(Vầng trăng vằng vặc in sông,
Chắc chỉ có một không không mơ màng)
Tính chất tĩnh lạnh của vầng trăng thiền biểu lộ sự không chú ý đến hiện hữu của ngoại vật, mà chỉ chú ý đến cái hư không của nội tâm. Điều này ngược với vầng trăng của thơ lãng mạn, vốn rạo rực nồng ấm.
Trăng với Hàn Mặc Tử có một quan hệ đặc biệt. Có người cho bệnh phong có một tương tác đặc hiệu nào đó với trăng, kiểu thủy triều. Điều đó có thể có hạt nhân hợp lý. Tuy nhiên, nếu có, đấy cũng chỉ là "cái hích ban đầu" thúc đẩy cỗ xe sáng tạo lăn bánh, chứ không phải là động cơ trực tiếp. Điều đáng nói là một nhà thơ lớn bao giờ cũng biết "khai thác" đến tận cùng cái tiểu sử cụ thể của mình. Nếu không bị cùi thì hẳn Hàn Mặc Tử đã không chú ý đến cái sắc độ dị thường trên gò má:
" Người trăng ăn vận toàn trăng cả,
Gò má riêng thôi lại đỏ hườm".
Nếu bản thân không nghèo đói, không yêu trăng thì thi sĩ cũng không có những câu thơ như:
"Áo ta rách rưới trời không vá",
Hoặc: "Trời hỡi nhờ ai cho khỏi đói
Gió trăng có sẵn làm sao ăn"...
Chỉ có Hàn Mặc Tử mới có thể nói về cái thiếu thốn, thiếu vắng của mình cao sang như vậy.
Có thể nói, trăng, ánh trăng đã để lại những cảm giác vật chấtlên thân xác Hàn Mặc Tử. Bởi thế, trong khi các nhà thơ Lãng mạn khác thi vị hoá trăng, Hàn Mặc Tử lại trần tục hoá nó. Từ chỗ: "Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối" của thơ luật đến "Trăng nằm song soài trên cành liễu... Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe" thì đã là một bước tiến dài. Tuy nhiên, bên cạnh sự người hoá trăng đó, Hàn Mặc Tử còn trăng hoá người. Điều này khiến ngòi bút ông nẩy ra những câu thơ khác lạ:
"Mới lớn lên trăng đã thẹn thò
Thơm như tình ái của ni cô".
Đây là một sự kết hợp đầy kỳ cục giữa các từ rất xa nghĩa nhau như ni cô và tình ái và thơm... Nhưng đằng sau cái vẻ nghịch lý đó là sự thuận lý: trăng đối với Hàn Mặc Tử như một con vật lưỡng thê, vừa vật chất, vừa tinh thần, vừa trần tục vừa thiêng liêng... Cạnh khía thứ hai của trăng được bộc lộ rõ hơn về giai đoạn sau của thơ Hàn Mặc Tử. 
Ở giai đoạn Đau thương này, trăng trong thơ Hàn Mặc Tử đã trở thành một ám ảnh ghê gớm. Nó vừa là ánh sáng, vừa là bóng tối, hay đúng hơn, là sự tương tranh của ánh sáng cùng bóng tối, một thế giới thích hợp với Hàn Mặc Tử. Nhà thơ cũng là ánh trăng:
"Không gian dày đặc toàn trăng cả
Tôi cũng trăng mà nàng cũng trăng"
Trăng cũng còn là hồn là máu. Đó là ba cạnh khía khác nhau của thế giới Hàn Mặc Tử, một thứ "tam vị nhất thể":
"Gió rít tầng cao trăng ngã ngửa
Vỡ trăng thành vũng đọng vàng khô
Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy
Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra"
(Say trăng)
Và:
"Thịt da tôi sượng sần tê điếng
Tôi đau vì rung rợn đến vô biên
Tôi dìm hồn xuống một vũng trăng êm
Cho trăng ngập dần lên tới ngực"
(Hồn là ai)
Ba hình tượng trăng, hồn, máu, theo Đặng Tiến, dồn đọng lại trong tương quan chặt chẽ: nhà thơ khạc hồn ra khỏi miệng, điên cuồng mửa máu ra hay ngậm cả một miệng trăng. Như vậy, cả ba, trăng, hồn, máu, đều từ thân ác Đau thương.
Ngoài ra, thơ Hàn Mặc Tử đầy những máu lệ/ thét gào (bút danh Lệ Thanh), gió bụi (bút danh Phong Trần)... Chúng tồn tại như những biệt thể của thân xác, khi tụ khi tán. Đau thương trong thơ ông có tính lưỡng trị: một mặt, nó làm ông suy nhược, hao mòn, tan loãng, mặt khác, nó lkhơi dậy trong ông nguồn sáng tạo vô biên. Ma1u, hồn, trăng là đau thương trở thành sáng tạo. Điều này giải thích được sở thích kỳ lạ của Hàn Mặc Tử, thoạt đầu có vẻ bệnh hoạn: nhà thơ muốn được nhìn thấy máu mình chảy:
"Lời thơ ngậm cứng không rên rỉ
Và máu tim anh vọt láng lai
Thơ ở trong lòng reo chẳng ngớt
Tiếng vang tha thiết dội muôn nơi"
Hàn mặc Tử có vẻ say mêcái "thú đau thương" này:
" Cứ để ta ngất ngư trên vũng huyết,
Trãi niềm đau trên mảnh giấy mong manh.
Đừng nắm lại nguồn thơ ta đang siết
Cả lòng ta trong mớ chữ rung rinh"
Với Nguyễn Trọng Trí, tín đồ Thiên Chúa giáo, đau thương là một phương tiện cứu chuộc tội lỗi. Còn với Hàn Mặc Tử, nhà thơ, giải phẩu đau thương là hành vi sáng tạo. Thơ Hàn Mặc Tử là kinh nghiệm đau thương, kinh nghiệm của con trai kết ngọc. "Không phải ngẫu nhiên mà tập thơ hay nhất của ông là Đau thương: Hương thơm là đau thương của thân thể rỉ ra để biến thành những dòng chữ:
" Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút
Mỗi lời thơ đều dính não cân ta
Bao dòng chữ quay cuồng như máu vọt
Cho mê man tê điếng cả làn da"

File đính kèm:

  • docHAN MAC TU MOT TU DUY THO DOC DAO.doc
Bài giảng liên quan