Hãy ghi lại những cảm xúc về Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Ngày 15/5/1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bản Di chúc đầu tiên. Bản Di chúc này do Người tự đánh máy dài 4 trang, có chữ ký của Người và chữ ký của đồng chí Lê Duẩn, khi đó là Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đây là bản Di chúc hoàn chỉnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Đến năm 1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tự cảm nhận được sức khỏe của Người giảm sút so với những năm trước đó. Người cho rằng, ở tuổi 75, Người thuộc lớp người “xưa nay hiếm”. Tuy cảm thấy tinh thần vẫn sáng suốt, thân thể vẫn khỏe mạnh, nhưng người dự báo “ai dám đoán biết tôi sẽ sống và phục vụ tổ quốc, phục vụ cách mạng được mấy năm nữa”. Rõ ràng, Hồ Chí Minh đã dự cảm được thời khắc quan trọng của thời gian còn lại ở cuối cuộc đời mình.

Từ dự cảm đó, Người viết: “vì vậy tôi để lại mấy lời này chỉ nói tóm tắt vài việc thôi, phòng khi tôi sẽ đi gặp các cụ Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác thì đồng bào cả nước và đồng chí trong Đảng khỏi cảm thấy đột ngột”.

 

doc4 trang | Chia sẻ: baobinh26 | Lượt xem: 720 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hãy ghi lại những cảm xúc về Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút TẢI VỀ ở trên
* Hãy ghi lại những cảm xúc về Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Ø Ngày 15/5/1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bản Di chúc đầu tiên. Bản Di chúc này do Người tự đánh máy dài 4 trang, có chữ ký của Người và chữ ký của đồng chí Lê Duẩn, khi đó là Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đây là bản Di chúc hoàn chỉnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đến năm 1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tự cảm nhận được sức khỏe của Người giảm sút so với những năm trước đó. Người cho rằng, ở tuổi 75, Người thuộc lớp người “xưa nay hiếm”. Tuy cảm thấy tinh thần vẫn sáng suốt, thân thể vẫn khỏe mạnh, nhưng người dự báo “ai dám đoán biết tôi sẽ sống và phục vụ tổ quốc, phục vụ cách mạng được mấy năm nữa”. Rõ ràng, Hồ Chí Minh đã dự cảm được thời khắc quan trọng của thời gian còn lại ở cuối cuộc đời mình. 
Từ dự cảm đó, Người viết: “vì vậy tôi để lại mấy lời này chỉ nói tóm tắt vài việc thôi, phòng khi tôi sẽ đi gặp các cụ Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác thì đồng bào cả nước và đồng chí trong Đảng khỏi cảm thấy đột ngột”.
Người đã chủ động viết Di chúc, để lại tình thương yêu và những lời căn dặn tâm huyết cho nhân dân ta, cho Đảng và bạn bè gần xa. Tuy sức khỏe giảm sút nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn nồng cháy một tình yêu lớn và tinh thần trách nhiệm cao với đồng chí, đồng bào toàn dân tộc, với cách mạng Việt Nam và với cách mạng thế giới.
Tháng 5/1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu viết Di chúc. Đúng thời điểm này, chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ ở miền Nam nước ta bị thất bại hoàn toàn. Ngoan cố và liều lĩnh, đế quốc Mỹ đã ào ạt đưa quân Mỹ đổ bộ vào miền Nam thực hiện chiến lược “chiến tranh cục bộ”, hòng tiêu diệt bộ đội chủ lực của quân giải phóng miền Nam, đồng thời mở rộng cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của Mỹ đánh phá, hủy diệt miền Bắc.
Di chúc của Hồ Chí Minh được viết vào thời điểm bản lề của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cách mạng dù còn khó khăn, song đang trên đà thắng lợi đòi hỏi sự đoàn kết chặt chẽ, chiến đấu bền bỉ của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân với niềm tin vững chắc vào thắng lợi cuối cùng.
Năm 1969, mở đầu Di chúc, Người viết: “Cuộc chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn, đó là một điều chắc chắn”.
Di chúc công bố năm 1969, lấy tư tưởng viết năm 1969 của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể còn kéo dài”. Trong Di chúc, Hồ Chí Minh đã khẳng định một quan điểm, giành độc lập, tự do của tổ quốc là để xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập và giàu mạnh. Người truyền niềm tin đó cho nhân dân qua câu thơ:
“Còn non, còn nước, còn Người
Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay”
Trong Di chúc, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh nhân tố đạo đức khi Đảng trở thành Đảng cầm quyền. Theo Người, Đảng cầm quyền là bước chuyển trọng đại trong sinh hoạt Đảng. Đảng cầm quyền có sứ mạng lãnh đạo giai cấp và dân tộc xây dựng thành công xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa. Để hoàn thành sứ mạng đó, Đảng ta phải “là đạo đức, là văn minh”.
Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền, mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành cho thế hệ trẻ Việt Nam tình yêu thương, sự quan tâm và niềm tin sâu sắc. Trong Di chúc của Người, Hồ Chí Minh đã dành một phần để nói về đoàn viên, thanh niên, Hồ Chí Minh luôn coi đoàn viên thanh niên là đội hậu bị của Đảng, là người chủ tương lai của đất nước. Vì vậy, người yêu cầu “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ trở thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa hồng vừa chuyên”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh có một tình cảm đặc biệt và niềm tin mãnh liệt vào nhân dân. Chính vì vậy, trong Di chúc của Người Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Nhân dân lao động ta ở miền xuôi cũng như miền núi, đã bao đời chịu gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân Pháp áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều năm chiến tranh. Tuy vậy, nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng”. Đồng thời, Hồ Chí Minh cũng chỉ ra trách nhiệm to lớn của Đảng với nhân dân là “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”.
Với chủ nghĩa quốc tế trong sáng và phương pháp tư tưởng tuyệt vời. Hồ Chí Minh không ngừng bày tỏ lời khuyên hay sự nhận xét đáng sai với người này, người khác, mà người người xác định trách nhiệm của Đảng ta đối với sự bất hòa ấy. Người bày tỏ niềm tin các Đảng anh em và các nước anh em nhất định sẽ phải đoàn kết lại.
Trong Di chúc, Người cũng đề cập đến các công việc cần phải làm sau chiến thắng đế quốc Mỹ xâm lược, là một nhà chiến lược thiên tài, nắm vững quy luật và cục diện của cuộc kháng chiến, Hồ Chí Minh tin tưởng chắc chắn rằng cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước nhất định sẽ thắng lợi, trong thời điểm viết Di chúc, dù khẳng định cuộc kháng chiến “còn kéo dài”, Hồ Chí Minh đã nhìn xa đến các nhiệm vụ sau khi kháng chiến thắng lợi.
Người căn dặn các công việc phải làm sau chiến tranh để đạt được mục tiêu phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân.
Với niềm tin vào nhân dân, vào con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ đầu tiên là công việc đối với con người. Sự quan tâm của Người thể hiện tình thương yêu bao la của Người với mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội: “Với những cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích thanh niên xung phong, với các liệt sĩ, với những người trẻ tuổi tham gia bộ đội...thì cần phải có những chính sách, phương pháp giải quyết phù hợp”. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đó là những nhiệm vụ phải thực hiện sau chiến tranh là những công việc rất to lớn, nặng nề, phức tạp nhưng cũng rất vẻ vang. Theo Người, công việc này là cuộc chiến đấu khổng lồ chống lại những cái cũ kĩ, hư hỏng để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Người nhắn nhủ, để giành thắng lợi trong cuộc chiến đấu này phải động viên toàn dân tổ chức và giáo dục toàn dân dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân.
Cuối Di chúc, Hồ Chí Minh mới đề cập “việc riêng” những nghi thức sau khi Người về với thế giới người hiền, qua đó thể hiện rõ những phẩm chất đạo đức vô cùng cao quý, Người có một tấm lòng yêu quê hương, yêu đất nước và đồng bào nhân dân đến tột cùng, đến thân thể của Người, Người cũng không giữ cho riêng mình. Người có tâm huyết “dành một ít tro xương cho đồng bào miền Bắc, một hộp cho miền Trung, một hộp cho miền Nam...mỗi miền nên chọn một quả đồi mà chọn hộp tro đó”.
Những dòng cuối Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói lời vĩnh biệt, thể hiện tình yêu thương bao la và khát vọng của mình. Trước hết, Người để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng. Tiếp đó, Người “gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn và các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế”. Cuối cùng, Người thể hiện mong muốn tột cùng, mục đích sống và mục tiêu phấn đấu suốt cuộc đời mình, đó là: “toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là chúc thư của một lãnh tụ thiên tài; một nhà cách mạng lỗi lạc có tầm nhìn xa, trông rộng; một chiến sĩ cộng sản suốt đời yêu thương, trân trọng con người, phấn đấu hi sinh vì tự do, hạnh phúc của con người.
Những tư tưởng lớn, những phẩm chất đạo đức trong sáng tuyệt vời và chủ nghĩa nhân văn cộng sản tỏa sáng từ Di chúc lịch sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi mãi là nguồn sức mạnh tinh thần dẫn dắt toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta trên con đường xây dựng tổ quốc Việt Nam theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.

File đính kèm:

  • docDi chuc Ho Chi Minh.doc
Bài giảng liên quan