Hệ thống công nhận kỹ năng nghề của các nước ASEAN và khả năng áp dụng vào Việt Nam
GIỚI THIỆU
Trong khuôn khổ Chương trình hợp tác phát triển ASEAN- Australia, các quốc gia ASEAN cùng nhau phối hợp thực hiện dự án “Tăng cường các hệ thống công nhận kỹ năng nghề trong ASEAN”.
Mục đích của dự án: nghiên cứu và phân tích hệ thống công nhận kỹ năng nghề sẵn có của mỗi nước và chia sẻ thông tin và những mô hình tốt của thế giới cho những quốc gia chưa có hệ thống công nhận kỹ năng nghề, để đưa ra những lựa chọn chính sách cho các nước ASEAN trong việc phát triển hệ thống công nhận kỹ năng nghề nhằm tăng cường năng lực cho công tác phát triển kỹ năng nghề ở mỗi nước, tăng cường sự linh hoạt của thị trường lao động, thúc đẩy quá trình hội nhập thị trường lao động trong ASEAN, thúc đẩy sự dịch chuyển lao động có tay nghề trong khu vực.
Qua quá trình hợp tác thực hiện dự án, chúng ta có dịp xem xét về thực trạng việc đánh giá công nhận kỹ năng nghề của Việt Nam và tìm hiểu về các hệ thống công nhận kỹ năng nghề của các nước trong khu vực, từ đó đề xuất các định hướng để phát triển hệ thống công nhận kỹ năng nghề của Việt Nam phù hợp với các quốc gia trong khu vực và thế giới.
c cơ sở đào tạo nghề Từ năm 1971 theo Chỉ thị số 38-TTg ngày 4 tháng 2 năm 1971 về việc tiến hành kiểm tra trình độ tay nghề của công nhân kỹ thuật của Thủ tướng Chính phủ. Việc kiểm tra đánh giá công nhận trình độ tay nghề này được tiến hành ở xí nghiệp bởi một hội đồng kiểm tra tay nghề của xí nghiệp do giám đốc xí nghiệp làm chủ tịch hội đồng bao gồm các bộ phận có liên quan trong xí nghiệp tham gia như: kỹ thuật, lao động tiền lương, giáo dục đào tạo, quản đốc các phân xưởng, đại diện công đoàn, thanh niên. - Nội dung kiểm tra đánh giá công nhận trình độ tay nghề gồm lý thuyết và thực hành về nghề nghiệp được dựa trên tiêu chuẩn nghề do các Bộ ngành hoặc chính quyền cấp tỉnh xây dựng theo hướng dẫn của Bộ Lao động (Thông tư số 473 ngày 21/11/1967 và Thông tư số 672 ngày 31/3/1969). Ngoài việc tiến hành kiểm tra trình độ tay nghề của người lao động, hàng năm các xí nghiệp phải thực hiện chế độ nâng bậc nghề cho công nhân quy định của Bộ Lao động (Thông tư số 13/LĐ-TT ngày 13 tháng 2 năm 1973) thông qua việc kiểm tra để đánh giá.- Từ khi Bộ Luật Lao động (được ban hành năm 1995) có hiệu lực thì việc đánh giá trình độ tay nghề khi tuyển chọn để bố trí công việc và nâng bậc nghề cho người lao động thuộc trách nhiệm của doanh nghiệp. Do vậy, việc nâng bậc nghề cho công nhân do doanh nghiệp tự tổ chức theo Thông tư số 05/LĐTBXH-TT ngày 22 tháng 3 năm 1995 của Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội hướng dẫn nâng bậc lương đối với công nhân, viên chức trong các doanh nghiệp. Mục đích của việc kiểm tra đánh giá công nhận trình độ tay nghề và nâng bậc nghề cho người lao động làm cơ sở cho việc bố trí và sử dụng lao động phù hợp với yêu cầu của sản xuất, khuyến khích người lao động học tập để không ngừng nâng cao trình độ tạo cơ hội thăng tiến trong nghề nghiệp. mô hình hệ thống công nhận kỹ năng nghề Quốc Gia Đề xuất áp dụng cho Việt NamLuật Giáo dục-Bộ luật Lao độngCơ quan quản lý các hoạt động đào tạoCơ quan quản lý các hoạt động đánh giáQuy định về DN theo các trình độKhung trình độ nghề quốc gia (3 trình độ đối với DN)Các cơ sở dạy nghề công lập/ngoài công lậpKinh nghiệm học tập và quá trình làm việc trước đâyHội đồng Phát triển kỹ năng nghề quốc giaBộ Tiêu chuẩn nghề quốc giaLoại công việc không cần phải có chứng chỉ công nhận trình độ tay nghềLoại công việc cần phải có chứng chỉ công nhận trình độ tay nghềGhi chú:Các yếu tố cần phải xác lậpQuy định về đánh giá công nhận trình độ tay nghềTrung tâm đánh giá đào tạo không chính quy/kinh nghiệm làm việc của người lao độngCơ quan cấp giấy phép hành nghềLuật chuyên ngành (Giao thông, Y dược,)Các yếu tố tạo nên một mô hình tốt về công nhận kỹ năng nghề quốc gia3.1. Hệ thống phân loại nghề quốc gia: Hệ thống phân loại nghề quốc gia phải phù hợp với tiêu chuẩn phân loại quốc tế về nghề nghiệp (ISCO-88) dựa trên 2 khái niệm chính để phân loại nghề là: khái niệm về loại công việc và khái niệm về tay nghề.- Loại công việc: là tập hợp các nhiệm vụ và trách nhiệm gắn với phương tiện để thực hiện nó. Loại công việc là cơ sở để phân loại nghề.- Tay nghề hay kỹ năng: là khả năng thực hiện các nhiệm vụ và trách nhiệm mà một nghề đòi hỏi. Tay nghề được thể hiện trên hai mặt:Cấp độ kỹ năng hay còn gọi là mức tay nghề: là sự kết hợp của mức độ phức tạp và phạm vi mà các nhiệm vụ và trách nhiệm phải giải quyết;Đặc tính chuyên môn: bao gồm lĩnh vực chuyên môn mà công việc đòi hỏi, các công cụ máy móc đã sử dụng, các nguyên liệu vật liệu dùng trong sản xuất và loại sản phẩm và dịch vụ đã làm ra.3.1. Hệ thống phân loại nghề quốc gia (tiếp)Để đảm bảo so sánh quốc tế, hệ thống phân loại nghề quốc gia được chia ra 4 mức tay nghề khái quát sau:- Mức tay nghề thứ nhất: tương ứng với trình độ sơ cấp cho các loaị công việc giản đơn không đòi hỏi chuyên môn kỹ thuật,;- Mức tay nghề thứ hai: tương ứng với trình độ trung cấp cho các loại công việc như lắp ráp và vận hành máy móc thiết bị; thủ công và các nghề liên quan đến thủ công; công việc đòi hỏi kỹ năng trong nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản; bán hàng và các công việc dịch vụ; nhân viên, thư ký;- Mức tay nghề thứ ba: tương ứng với trình độ cao đẳng cho các loại công việc như kỹ thuật viên và các công sự cho các chuyên gia;- Mức tay nghề thứ tư: tương ứng với trình độ đại học và tương đương trở lên cho các chuyên gia.3.2. Khung trình độ quốc gia: Khung trình độ quốc gia thực chất là một khung phân loại và đăng ký trình độ tay nghề theo một bộ tiêu chuẩn quốc gia / tiêu chí cho các cấp học / kỹ năng nghề thu nhận được. Về cơ bản khung trình độ quốc gia đòi hỏi 3 yếu tố:- Sự thoả thuận về các tiêu chuẩn chứng minh được năng lực hoặc sự hoàn thành trong các công việc thực hành/hoặc sự thấu hiểu các nguyên lý lý thuyết liên quan đến công việc hoặc quá trình thực hiện;- Một hệ thống công nhận hoặc cấp chứng chỉ về hoàn thành năng lực cá nhân ở một trình độ được thừa nhận;- Một hệ thống tiêu chuẩn về cấp chứng chỉ trình độ tay nghề tin cậy. Các trình độ được thừa nhận trong hệ thống cho phép sự tiến bộ của cá nhân thông qua hệ thống giáo dục và đào tạo bằng sự công nhận hoặc liên thông giữa các trình độ trong toàn bộ khu vực.Khung trình độ quốc gia phải phù hợp với hệ thống phân loại nghề quốc gia. Theo đó khung trình độ quốc gia có 4 cấp tương ứng với 4 loại văn bằng, chứng chỉ sau: Chứng chỉ 1 (click here for detail) Chứng chỉ 2 (click here for detail) Chứng chỉ 3 (click here for detail) Chứng chỉ 4 (click here for detail)3.2. Tiêu chuẩn nghề (TCN) quốc gia Phát triển bộ TCN quốc gia thống nhất để làm cơ sở cho việc đánh giá công nhận trình độ nghề cho người lao động theo các nguyên tắc sau:- TCN phải được xây dựng trên cơ sở danh mục nghề thống nhất theo hệ thống phân loại nghề quốc gia; - TCN phải thể hiện được những năng lực cần có ở người lao động trong các lĩnh vực nghề nghiệp đã xác định thông qua quá trình đào tạo hoặc sự tích luỹ kinh nghiệm trước đó và cũng phải đáp ứng những yêu cầu về an toàn lao động;- TCN phải được lượng hoá thành các yêu cầu cụ thể về mức độ để có thể kiểm tra đánh giá được;- TCN phải đồng thời thoả mãn các yêu cầu của cơ quan quản lý Nhà nước về nguồn nhân lực và của giới sử dụng lao động cũng như phải bảo vệ quyển lợi của người lao động;- TCN phải tiến dần đến sự hội nhập với khu vực và quốc tế; Việc xây dựng bộ tiêu chuẩn quốc gia cho các nghề được thực hiện thông qua một tổ chức hay cơ quan chức năng được thành lập trong đó có các chuyên gia hàng đầu về các nghề, đại diện hiệp hội ngành nghề, người lao động, các chuyên gia về đào tạo... Và phải có một cơ quan chính phủ độc lập chịu trách nhiệm giám sát, lưu trữ các thông tin liên quan đến tiêu chuẩn nghề.3.4. Cơ hội đào tạo dành cho những người có nhu cầu đào tạo và cơ hội dành cho những người có trình độ tay nghề thấp: Đào tạo phải đồng nhất với những tiêu chí văn bằng, chứng chỉ và tiêu chí tuyển việc. 3.5. Quy định về cấp văn bằng, chứng chỉ: Văn băng, chứng chỉ và tiêu chí tuyển việc phải thống nhất với hệ thống tiêu chuẩn nghề và khung trình độ quốc gia. Tiêu chuẩn tuyển việc phải thống nhất với hệ thống công nhận tay nghề, đảm bảo rằng không có người lao động hành nghề mà không được đánh giá.3.6. Hệ thống chất lượng: Hệ thống chất lượng nhằm đảm bảo tính thống nhất của các tiêu chuẩn để chứng nhận những kỹ năng đạt được. Các tiêu chí đảm bảo chất lượng phải được định nghĩa rõ ràng. Phải tiến hành đào tạo cho các cơ sở đào tạo và các hội nghề nghiệp về tiêu chuẩn nghề.Phải có hệ thống quốc gia nhằm giám sát và điều chỉnh chất lượng của các tổ chức đào tạo.3.7. Công nhận trong các ngành Các ngành phải hiểu biết về tiêu chuẩn nghề và khung trình độ quốc gia. Hiệp hội ngành nghề phải chấp nhận và sử dụng các tiêu chuẩn trong việc tuyển chọn nhân viên đồng thời phải hỗ trợ công tác đào tạo và công nhận tay nghề cho lao động đang sử dụng.Về hệ thống cung cấp các kỹ năng để làm việc có hiệu quả, chúng ta đều thấy rằng nó cần phải có 3 bộ phận cấu thành:- Một khung trình độ và bộ tiêu chuẩn năng lực (tiêu chuẩn nghề) được xác định rõ ràng bởi chính phủ và các hiệp hội nghề nghiệp;- Cá nhân những người chuẩn bị đầu tư thời gian và nguồn lực trong việc phát triển kỹ năng và như vậy các kỹ năng đó cần phải được công nhận;- Các ngành sử dụng khung trình độ và tuyển chọn nhân viên trên cơ sở kỹ năng của họ và bù đắp cho họ đáp ứng được các tiêu chuẩn kỹ năng.3.8. Hệ thống và quy trình công nhận kỹ năng nghề Hệ thống và quy trình công nhận kỹ năng nghề bao gồm:- Các cơ chế kiểm định kỹ năng;- Cơ hội dành cho những người có tay nghề được công nhận;- Hiểu biết của người lao động về tầm quan trọng của công nhận kỹ năng nghề;-Cơ hội cho người lao động trong nước và người nước ngoài được công nhận kỹ năng nghề;- Các nhóm ngành nghề và các cơ sở đào tạo cùng sử dụng một bộ tiêu chuẩn kỹ năng.3.9. Thiết lập một cơ quan nhà nước: Cần phải có một cơ quan nhằm giám sát đảm bảo chất lượng và tuân thủ chặt chẽ việc công nhận kỹ năng. Cơ quan này sẽ chịu trách nhiệm giám sát, lưu trữ các thông tin liên quan đến đánh giá công nhận kỹ năng nghề quốc gia cho người lao động làm việc tại Việt Nam bao gồm cả lao động là người nước ngoài thuộc Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (có thể nằm trong Tổng cục Dạy nghề). 3.9. Thiết lập một cơ quan nhà nước (tiếp)Cơ quan này có nhiệm vụ và quyền hạn:Xây dựng hoặc tổ chức xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật về đánh giá và công nhận trình độ tay nghề cho người lao động;- Tổ chức và hướng dẫn việc xây dựng, thẩm định, quản lý và cập nhật các tiêu chuẩn kỹ năng nghề, các ngân hàng đề thi đánh giá trình độ tay nghề;- Xem xét việc công nhận cán bộ đánh giá và các tổ chức đánh giá kỹ năng nghề;- Quản lý một số trung tâm đánh giá kỹ năng nghề;- Hướng dẫn và giám sát các hoạt động đánh giá và công nhận trình độ tay nghề của các cơ quan, tổ chức đánh giá kỹ năng nghề của các ngành và các địa phương;- Hướng dẫn việc tổ chức các hội thi tay nghề các cấp;- Tổ chức thẩm tra, so sánh để thừa nhận hoặc công nhận văn bằng chứng chỉ nghề của nước ngoài tại Việt Nam;- Tổ chức việc đào tạo, huấn luyện cho cán bộ đánh giá.xin cảm ơn sự theo dõi của CÁC BẠN
File đính kèm:
- Dao tao nghe trong hoi nhap ASEAN.ppt