Một Sốvấn Đề Về Nội Dung Của Lịch Sử Tư Tưởng Kinh Tế Việt Nam

Ởnước ta trong thời gian qua, việc nghiên cứu vềlịch sửkinh tếcòn rất khiêm

tốn, chưa tương xứng với vịtrí, vai trò của nó trong khoa học kinh tếnói chung,

cũng nhưvới yêu cầu thực tiễn của đất nước. Hơn thếnữa, việc nghiên cứu lịch

sửtưtưởng kinh tếViệt Nam cho đến nay vẫn còn là một khoảng trống, chưa có

một công trình chuyên khảo nào nghiên cứu một cách hệthống vềvấn đềnày.

Sởdĩcó tình trạng trên là do trong thời gian qua việc nghiên cứu vềlịch sửkinh

tếdân tộc, đặc biệt là lịch sửtưtưởng kinh tếViệt Nam chưa được quan tâm

đúng mức. Hơn nữa, đây lại là một lĩnh vực nghiên cứu còn rất mới mẻvà có

nhiều khó khăn. Khó khăn lớn nhất hiện nay chính là các nguồn tưliệu đểcó thể

dựng lên được bức tranh xác thực vềcác quá trình phát triển kinh tếcủa dân

tộc. Mặt khác việc nghiên cứu đểrút ra được những tưtưởng kinh tếcơbản, cốt

lõi của từng thời kỳlịch sửdân tộc là một việc làm không đơn giản. Đểgiải quyết

vấn đềnày, chúng ta phải xác định được những tiêu thức cơbản vềphương

pháp luận cũng nhưnhững chuẩn mực cần thiết cho việc định hình một tưtưởng

kinh tếtrong lịch sử.

Những khó khăn và sựchậm trễnêu trên càng đặt ra những bức xúc hiện nay

trong việc nghiên cứu lịch sửkinh tếdân tộc đặc biệt là lịch sửtưtưởng kinh tế

Việt Nam. Bởi vì nếu không hiểu được một cách đầy đủvềlịch sửkinh tếdân tộc

thì chưa thểcó cái nhìn biện chứng và toàn diện vềlịch sửdân tộc nói chung.

Trong đó, lịch sửtưtưởng kinh tếchính là yếu tốchi phối, có tác động quyết

định đến tiến trình và trình độphát triển kinh tế. Hơn nữa lịch sửtưtưởng kinh

tếchính là một bộphận cấu thành của lịch sửtưtưởng Việt Nam nói chung và là

cơsởquyết định cho sựhình thành và phát triển của lịch sửtưtưởng dân tộc.

Nhưvậy việc nghiên cứu lịch sửtưtưởng kinh tếViệt Nam không chỉnhằm làm

rõ những tưtưởng kinh tếchủ đạo, chi phối quá trình phát triển kinh tếcủa dân

tộc qua các thời kỳlịch sử, hiểu sâu sắc hơn công cuộc dựng nước và giữnước

của các thếhệ, mà còn có ý nghĩa to lớn trong việc cung cấp những luận cứlý

luận và thực tiễn đểhoạch định chiến lược, đường lối, chính sách công nghiệp

hóa, hiện đại hóa ởnước ta hiện nay. Nghiên cứu lịch sửtưtưởng kinh tếcòn

góp phần quan trọng vào việc tìm hiểu, kếthừa những giá trịtruyền thống của

dân tộc trong quá khứ, đây chính là nguồn năng lực nội sinh quan trọng cần

được tận dụng và phát triển

pdf7 trang | Chia sẻ: hongmo88 | Lượt xem: 1683 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một Sốvấn Đề Về Nội Dung Của Lịch Sử Tư Tưởng Kinh Tế Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút TẢI VỀ ở trên
nông nghiệp, các hoạt động thủ công nghiệp và 
thương nghiệp đã đạt được những thành tựu mới. Nhiều làng và phường thủ 
công nổi tiếng đã xuất hiện ở mọi miền đất nước, thủ công nghiệp Việt Nam đã 
sản xuất ra những sản phẩm thủ công không chỉ nổi tiếng ở trong nước mà còn 
có giá trị quốc tế. Các hoạt động thương nghiệp được mở rộng, đặc biệt đến thế 
kỷ XVI-XVIII đã xuất hiện những trung tâm buôn bán lớn với sự tham gia của 
các thương nhân nước ngoài như ở Thăng Long, Phố Hiến, Thanh Hà, Hội An, 
Biên Hòa.. 
Tuy nhiên do những hạn chế của bản thân phương thức sản xuất Châu Á, đặc 
trưng của phương Đông, nên nền kinh tế Việt Nam còn mang nặng tính tự cấp 
tự túc, các quan hệ hàng hóa-tiền tệ chậm phát triển, các quan hệ sản xuất 
trong nền kinh tế không đủ sức thoát khỏi vỏ bọc của quan hệ sản xuất phong 
kiến để nảy sinh những yếu tố của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa như ở các nước 
phương Tây. Đó là nguyên nhân khách quan dẫn đến sự trì trệ và lạc hậu của 
nền kinh tế Việt Nam trong các thế kỷ XVIII-XIX . 
Những đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ phong kiến chính là sản 
phẩm của những tư tưởng kinh tế đã được định hình rõ nét trong thời kỳ này. 
Dưới đây là một số tư tưởng kinh tế chủ yếu đã chi phối quá trình phát triển của 
nền kinh tế Việt Nam: 
- Tư tưởng trọng nông đã trở thành tư tưởng chủ đạo trong quá trình phát triển 
kinh tế dân tộc. Tư tưởng này không chỉ ăn sâu vào quan điểm, chính sách trị 
nước của nhà nước phong kiến mà nó còn chi phối nhận thức và công cuộc mưu 
sinh của người dân Việt Nam. 
- Gắn liền với tư tưởng trọng nông là tư tưởng và chính sách khuyến nông của 
nhà nước phong kiến. Thực tế lịch sử thời kỳ này cho thấy các triều đại phong 
kiến Việt Nam đã có nhiều biện pháp để khuyến khích nông nghiệp phát triển, từ 
việc khuyến khích khai hoang mở rộng diện tích, thực hiện chính sách "Ngụ binh 
ư nông", miễn giảm thuế cho nông dân những năm mất mùa hay sau khi kết 
thúc các cuộc chiến tranh giữ nước để nuôi dưỡng sức dân. cho đến việc nhà 
vua cày ruộng "tịch điền", làm lễ trừ sâu, lễ tế côn trùng, xem gặt lúa vv. đều 
nói lên sự quan tâm thường trực của nhà nước phong kiến đối với việc phát triển 
nông nghiệp. Có thể nói, chính sách khuyến nông chính là một trong những 
chuẩn mực cơ bản để đánh giá năng lực và sự thịnh suy của các triều đại phong 
kiến Việt Nam. 
- Tư tưởng trọng nông tất yếu dẫn đến tư tưởng "ức chế công thương nghiệp" 
trong lịch sử tư tưởng kinh tế Việt Nam. Tư tưởng này chi phối suốt hành trình 
phát triển của nền kinh tế Việt Nam thời kỳ phong kiến và từ thế kỷ XVI trở đi 
trước yêu cầu mới của nền kinh tế, tư tưởng này đã trở thành vật cản to lớn đối 
với sự phát triển của nền kinh tế dân tộc. Chính tư tưởng "ức chế công thương 
nghiệp" đã dẫn đến những chính sách kinh tế bảo thủ, lạc hậu, kìm hãm sức sản 
xuất của nhà nước phong kiến vào nửa đầu thế kỷ XIX. 
- Tư tưởng quản trị của nhà nước phong kiến: Đây là vấn đề lớn và là di sản quý 
giá của tổ tiên trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Có thể nói, so với 
phương Tây, tư tưởng quản trị của phương Đông nói chung và Việt Nam nói 
riêng đã có những nét đặc sắc và triết lý sâu xa. Tư tưởng "tề gia, trị quốc, bình 
thiên hạ" đến nay vẫn là chân lý trong thuật trị nước. 
Nghiên cứu về tư tưởng quản trị trong lĩnh vực quản lý kinh tế ở Việt Nam thời 
kỳ này chúng ta có thể tập trung làm rõ các vấn đề như: - Quan điểm về vai trò 
của nhà nước trong điều hành nền kinh tế (đặc biệt thông qua việc trị thủy, làm 
thủy lợi, khai hoang vv.); - Quan điểm sử dụng đội ngũ quan lại, trí thức của nhà 
nước phong kiến; - Quan điểm trị nước, phát triển kinh tế thông qua tư tưởng 
"khoan sức dân", "nới sức dân" của nhà nước; - Quan điểm xây dựng và điều 
hành các cơ sở kinh tế của nhà nước của các triều đại phong kiến vv. 
- Nghiên cứu tư tưởng kinh tế Việt Nam thời phong kiến theo chúng tôi cũng cần 
phải tập trung nghiên cứu, làm rõ những tư tưởng cải cách của các nhà cải cách 
lớn trong lịch sử Việt Nam. Ở một chừng mực nhất định, các tư tưởng cải cách 
của các nhà cải cách lớn trong lịch sử đã để lại những dấu ấn đậm nét đối với 
giai đoạn mà họ đã sống. Dưới góc độ nghiên cứu về lịch sử tư tưởng kinh tế, 
theo chúng tôi nên tập trung nghiên cứu các nhà cải cách lớn như: Nguyễn Trãi, 
Hồ Quý Ly, Quang Trung, Nguyễn Trường Tộ vv.. 
3. Tư tưởng kinh tế thời cận đại 
Từ năm 1858 đến 1945 nền kinh tế Việt Nam biến chuyển theo sự thăng trầm 
của hai cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Bên cạnh sự tồn tại của các 
tư tưởng kinh tế truyền thống thì sự du nhập ở mức độ nhất định những tư 
tưởng kinh tế thị trường của phương Tây đã diễn ra cùng với quá trình du nhập 
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. 
Tuy nhiên trong thời kỳ cận đại của Việt Nam những tư tưởng kinh tế truyền 
thống vẫn giữ vai trò chủ đạo, tư tưởng kinh tế thị trường du nhập từ phương 
Tây diễn ra một cách tự phát và khá mờ nhạt. 
4. Tư tưởng kinh tế thời hiện đại 
Từ năm 1945, lịch sử Việt Nam nói chung và lịch sử kinh tế Việt Nam nói riêng 
đã diễn ra trong những điều kiện đặc biệt của hai cuộc kháng chiến chống thực 
dân Pháp, đế quốc Mỹ, và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội (ở miền Bắc: 
1955-1975 và trên phạm vi cả nước: từ 1975 đến nay). Trong thời kỳ này các tư 
tưởng kinh tế đã xuất hiện, tồn tại và phát triển ở những mức độ khác nhau do 
hoàn cảnh lịch sử và có sự đan xen lẫn nhau. Ở đây có thể nêu lên một số tư 
tưởng kinh tế chủ yếu như sau: 
- Sự du nhập của tư tưởng kinh tế thị trường: Nếu như trong thời kỳ khai thác 
thuộc địa của thực dân Pháp tư tưởng kinh tế thị trường được du nhập tự phát 
thì ở miền Nam Việt Nam những năm 1954-1975 tư tưởng kinh tế thị trường đã 
được du nhập một cách có hệ thống: Các học thuyết kinh tế phương Tây được 
dịch thuật, biên soạn giới thiệu và giảng dạy trong các trường đại học; các lý 
thuyết kinh tế thị trường được vận dụng trong chính sách phát triển kinh tế của 
nhà nước; các kiến thức về kinh tế thị trường được thể hiện trong sản xuất kinh 
doanh của các doanh nghiệp. 
- Quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam gắn liền với những nguyên lý cơ bản của 
kinh tế học chính trị (KTHCT) Marxist. KTHCT Marxist đã được du nhập và vận 
dụng trong điều kiện lịch sử Việt Nam trải qua những bước đi đầy thuận lợi 
nhưng cũng gặp rất nhiều thử thách từ thực tiễn phát triển kinh tế. 
Trong một thời gian khá dài (1955-1985) bên cạnh những nội dung cơ bản về 
tính khoa học và cách mạng của KTHCT Marxist được nghiên cứu chuyển tải vào 
đời sống kinh tế -xã hội và có vai trò tích cực trong sự nghiệp cách mạng của 
dân tộc, thì nhiều tư tưởng của mô hình kinh tế XHCN đã được thực hiện ở Liên 
Xô, Trung Quốc. cũng đã được du nhập vào Việt Nam. 
Từ thập kỷ 80, đặc biệt từ Đại hội Đảng lần thứ VI (12/86) của Đảng Cộng sản 
Việt Nam đến nay, cùng với đường lối đổi mới của Đảng, những biến chuyển to 
lớn của bối cảnh thế giới, nhất là sự khủng hoảng của mô hình CNXH cũ trước 
đây, thì tư tưởng KTHCT Mác xít ở Việt Nam được tiếp tục nghiên cứu, vận dụng 
và phát triển ở một tầm tư duy mới. 
- Tư tưởng kinh tế thị trường theo định hướng XHCN: Đây là tư tưởng kinh tế 
gắn liền với đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam và từ thực tiễn công 
cuộc phát triển kinh tế của đất nước. Mặc dù quá trình hình thành và phát triển 
của tư tưởng này mới chỉ thực sự tác động mạnh đến nền kinh tế -xã hội từ năm 
1986 đến nay nhưng nó đã có vị trí xứng đáng trong lịch sử tư tưởng kinh tế Việt 
Nam đương đại. 
Cho đến nay mặc dù tư tưởng kinh tế thị trường theo định hướng XHCN đã được 
định hình ở Việt Nam nhưng đó cũng mới chỉ là bước đầu. Thực tế công cuộc xây 
dựng CNXH ở Việt Nam đang đặt ra rất nhiều vấn đề cần tiếp tục được nghiên 
cứu. 
- Tư tưởng kinh tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Đây là một di sản quý báu, chi phối 
và định hướng quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam. 
Thực tế trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta, tư tưởng kinh tế của Hồ Chủ 
tịch đã có vai trò quan trọng trong việc xây dựng đường lối chính sách kinh tế 
của Đảng và nhà nước ta. Song đây là một di sản mà chúng ta chưa khai thác 
đầy đủ, do vậy cần phải tiếp tục nghiên cứu và vận dụng trong quá trình xây 
dựng CNXH. Theo chúng tôi những nội dung cơ bản của tư tưởng kinh tế Hồ Chí 
Minh chính là sự gắn bó chặt chẽ giữa các giá trị tư tưởng truyền thống và hiện 
đại của dân tộc, giữa những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin với thực 
tiễn Việt Nam, giữa những giá trị tư tưởng của dân tộc với những tinh hoa tư 
tưởng của nhân loại. Dưới đây là một số tư tưởng kinh tế cốt lõi của chủ tịch Hồ 
Chí Minh: 
Tư tưởng gắn mục tiêu xây dựng CNXH với nhu cầu cơ bản của nhân dân, đó là 
độc lập, tự do, cơm no, áo ấm, mọi người đều được học hành và chăm lo sức 
khỏe tốt. 
Tư tưởng khoan sức dân, nới sức dân, lấy dân làm gốc trong việc hoạch định các 
chính sách và biện pháp phát triển kinh tế. 
Những tư tưởng trong việc thực hiện công nghiệp hóa cũng như trên các lĩnh 
vực kinh tế : công nghiệp, nông nghiệp, tài chính, thương nghiệp.. Ví dụ như tư 
tưởng khuyến nông trong phát triển nông nghiệp, tư tưởng tiết kiệm trong chính 
sách tài chính, tư tưởng xây dựng các xí nghiệp quốc doanh trong công nghiệp 
vv.. 
Tư tưởng về xây dựng tổ chức và đào tạo cán bộ trong nền kinh tế: Đây cũng là 
một nội dung lớn trong di sản tư tưởng kinh tế của Hồ Chủ tịch, được thể hiện 
qua các quan điểm về : năng lực, phẩm chất cán bộ; đào tạo và sử dụng cán bộ; 
lề lối làm việc của các cơ quan nhà nước; vai trò của đội ngũ trí thức, của phụ nữ 
vv. 
Tóm lại: Trên đây là một số suy nghĩ của chúng tôi về vị trí, vai trò và một số nội 
dung cơ bản của việc nghiên cứu lịch sử tư tưởng kinh tế Việt Nam. Đây là một 
vấn đề còn nhiều mới mẻ, do vậy những trình bày ở trên mới chỉ ở dạng khái 
quát và chắc chắn còn nhiều nội dung cần nghiên cứu, trao đổi thêm. Chúng tôi 
rất mong được sự quan tâm, cùng trao đổi, hợp tác nghiên cứu của các nhà 
khoa học. 

File đính kèm:

  • pdf1-00T35[1].pdf