Phân tích Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài

VỢ CHỒNG A PHỦ

Tô Hoài

I. Tri thức khái quát:

1. Nội dung tư tưởng:

“Vợ chồng A Phủ” viết về đề tài cuộc sống nô lệ của nhân dân lao động miền núi dưới ách phong kiến thổ ti lang đạo và khả năng đổi đời của họ trong bối cảnh chung của các nước đang tiến hành cuộc cách mạng dân tộc - dân chủ.

Đoạn trích trong tác phẩm miêu tả cuộc sống của những người dân lao động Tây Bắc trong cuộc sống tối tăm đã vùng lên phản kháng chúa đất phong kiến. Đồng thời đấu tranh, khẳng định sức sống của con người không thể chết, nó tiềm tàng trong bản thân mỗi người và chính nó là nguồn gốc của sự thức tỉnh và trỗi dậy đổi đời.

2. Hình thức nghệ thuật:

Cuộc đời và số phận của Mị và A Phủ, một gái, một trai, kẻ là con dâu gạt nợ, người là con ở gạt nợ, họ bị đầy đoạ và cuối cùng, giải cứu nhau, cùng nhau chạy đến khi du kích Phiếng Sa trở thành những người tham gia kháng chiến chống đế quốc và phong kiến. Đoạn trích tập trung vào thời kì hai người còn làm nô lệ nhà thống lí.

Tác phẩm đã khắc hoạ chân thực những nét riêng biệt về phong tục tập quán, tính cách và tâm hồn người dân các dân tộc thiểu số bằng một giọng văn nhẹ nhàng, tinh thế đượm màu sắc và phong vị dân tộc, vừa gián tính tạo hình vừa giàu chất thơ.

 

doc13 trang | Chia sẻ: baobinh26 | Lượt xem: 752 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút TẢI VỀ ở trên
ng của nhà 
văn đối với nỗi đau thương của con người.
2. Những phẩm chất đáng quý của A Phủ.
- Lạc quan, yêu đời, yêu cuộc sống, cần cù lao động và rất có tài (dẫn chứng).
- Sự vùng dậy của A Phủ.
+ Có nguồn gốc và cơ sở vững vàng.
+ Dũng cảm từ nhỏ (dẫn chứng)
+ Dám đánh con quan (dẫn chứng)
+ “Lì như tượng đá” trong bữa tiệc phạt vạ
+ Định đi bắt hổ bù lại con bò mất
 Khi được Mị cứu thoát, sức lực của A Phủ rất yêu “khuỵ xuống, không bước nổi” nhưng A Phủ lại “quật sức vùng lên chạy” để thoát khỏi bàn tay tội ác của lũ chúa đất, thoát khỏi cái chết, để được sống.
- Khát vọng sống mãnh liệt ấy đã giúp cho A Phủ một sức mạnh quật khởi thoát khỏi cái chết.
 Khát vọng sống mãnh liệt ấy đã giúp A Phủ cứu lại được Mị thoát khỏi cái chết.
 Phản ánh điều này, Tô Hoài muốn khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của người dân miền núi. Trong hoạn nạn, họ sẵn sàng cưu mang nhau thoát khỏi cảnh đời bi thương.
- Nỗi khổ và sự vùng dậy của A Phủ rất tiêu biểu cho nỗi khổ và sự vùng dậy (tuy là sự vùng dậy tự phát) của đồng bào miền núi khi chưa có Đảng lãnh đạo. Tuy nhiên, đó cũng là cơ sở để sau này khi có ánh sáng của Đảng, A Phủ đã đi theo Đảng đến cùng, không những chỉ giải phóng cho mình mà còn giải phóng cho quê hương đất nước.
3. Kết luận:
- Bút pháp khắc hoạ nhân vật tài tình của Tô Hoài: A Phủ hiện lên thật độc đáo: ít nói, thiên về hành động.
- Phản ánh cuộc đời A Phủ, nhà văn lên án bọn phong kiến miền núi dã man, tàn bạo, bất công
- Cảm thông với nỗi khổ, phát hiện những phẩm chất đáng quý của người lao động miền núi
III. Tham khảo văn bản cảm thụ
Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong vợ chồng A Phủ.
Sau những dòng hiện thực, trĩu nặng lòng trắc ẩn trước kiếp người nô lệ, nhà văn Tô Hoài chuyển ngòi bút sang câu văn lãng mạn, mộng mơ để mở đầu những phút trỗi dậy của sức sống tuổi trẻ trong tâm hồn cô Mị - nhân vật chính trong truyện Vợ chồng A Phủ. Từ đó biết bao câu chữ, bao chi tiết, hình ảnh thẩm mĩ cứ nối nhau tuôn chảy, cứ gọi nhau ngân vang. Trong những hình ảnh chi tiết ấy, có lẽ nhà văn dụng công nhiều nhất khi miêu tả hình ảnh “tiếng sáo đêm xuân”. Chỉ đọc hơn hai trang truyện, đã có đến được 6 lần Tô Hoài nói đến tiếng sáo. Trong đó, có 3 lần đặc tả với những sắc độ âm thanh, tạo ra những ngữ nghĩa và hiệu quả thẩm mĩ thật là sống động, phong phú:
 Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi. Mị ngồ nhẩm thầm bài hát của người đang thổi:
Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu
Đấy là mấy giai điệu mở đầu của tiếng sáo. Nó từ xa vọng lại, nhưng nó thiết tha bổi hổi bồi hồi, nghĩa là nó thật gần gũi, da diết, khẩn cầu, nóng ấm một khát vọng được yêu, có người để yêu thương. Vì thế, vừa nghe tiếng sáo, Mị đã nhẩm thầm được lời bài tình ca, trong dó hiển hiện một nghịch cảnh của cô gái đang khao khát hạnh phúc lứa đôi: Mày có ta không Mày đi làm nương Ta đi tìm người yêu. Nói khác đi, tiếng sáo mở đầu trong những đêm tình mùa xuân ấy là tiếng gọi của bạn bè. Nó có hai sắc độ thiết tha và bồi hồi, đã đánh thức tâm hồn đang yên ngủ, an phận, nó nhóm lên khát vọng đang lụi tàn trong ý nghĩ và tình cảm của Mị, người đàn bà từng có một tuổi thơ tràn trề hạnh phúc.
Từ cái chức năng đánh thức, tiếng sáo đã hồi sinh cho tâm hồn và giục giã Mị hành động. Từ tiếng sáo ngoài đầu núi, Mị nghe tiếng sáo ở ngay sân chơi trong làng. Mị lén lấy hũ rượu, uống ừng ực rồi lịm mặt và lòng Mị đang sống về ngày trước. Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị Mị thấy phơi phới trở lại trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ, Mị muốn đi chơi Dồn dập, nối nhau, sáu lần, nhà văn kể về tiếng sáo. Khi là của Mị, khi của người khác, tiếng sáo cất lên, trong hiện tại, hoà quyện những âm thanh trong quá khứ vọng về. Và cũng dồn dập những sự việc, những niềm vui tuổi trẻ mà Mị từng trải qua, đang sống lại. Đọc văn, ta ngỡ như mỗi từ ngữ, mỗi câu văn cứ ngân lên, rộn ràng tiếng sáo, náo nức tình người. Sóng âm thanh khi thì vút cao lên, rủ rê mời gọi, khiến cho Mị thấy phơi phới trở lại, lòng vui sướng, Mị muốn đi chơi Khi nó trầm xuống, sẻ chia, vỗ về nỗi đắng cay chua xót bởi cái thân phận phải ép duyên, bán mình của cô gái. Tiếng sáo như thủ thỉ trò chuyện, rồi lắng nghe từng cung bậc tâm trạng của Mị: A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau! Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra Ngọn sóng tủi hờn, bi luỵ đang khóc than trong lòng cô gái thì sóng tình yêu và khát vọng của tiếng sáo lại dội lên, lửng lơ bay ngoài đường nhắc những lời gan ruột:
Anh ném pao, em không bắt
Em không yêu, quả pao rơi rồi
Đấy là lời của tiếng sáo, lời của bài tình ca, lời của các bạn trai gái đang yêu nhau, tâm tình bên nhau và cũng là những tiếng lòng da diết, mãnh liệt từ bao năm bị chôn vùi, kìm nén trong trái tim, trí tụê của Mị. Vì thế, nó đã thôi thúc, giục giã Mị hành động. Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo. Mị muốn đi chơi, Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách. Lúc này A Sử, tên chồng vũ phu đang đứng ngay trước mặt Mị. Nhưng cô gái như không nhìn thấy, không thèm quan tâm. Cô thản nhiên làm cái việc mà cô muốn. Bởi vì, tiếng sáo mùa xuân tuổi trẻ tự trong tâm hồn Mị đã thực sự ngân lên. Bởi vì khát vọng tình yêu, hạnh phúc và tự do đã trỗi dậy. Những thanh sắc tình yêu nhân bản từ ngoại cảnh đã đồng vọng cùng thanh sắc của nội lực bên trong khiến cho cô gái nô lệ khổ đau ấy hồi sinh, muốn xoá bỏ cái thân phận hiện tại để trở lại cái quá khứ, cội nguồn vốn rất tự do, trong lành, trong lành như mùa xuân, tự do như tiếng sáo những đêm tình Có thể nói, nghệ thuật miêu tả tiếng sáo và tâm trạng nhân vật của nhà văn Tô Hoài ở đoạn này thật tài hoa. Sáu lần ông nói tới tiếng sáo, kể về những cô gái, chàng trai thổi sáo, hát tình ca, nghe sáo, đi theo tiếng sáo. Ba lần ông đặc tả tiếng sáo: văng vẳng tiếng sáo, tiếng sáo lửng lơ bay, trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo Những từ tượng thanh, kết hợp nghệ thuật đảo âm tiết (không viết lơ lửng mà viết lửng lơ), đảo từ (động từ văng vẳng trước danh từ tiếng sáo, tính từ lửng lơ trước động từ bay, động từ rập rờn trước danh từ tiếng sáo) khiến cho những âm thanh của thứ nhạc cụ dân dã ấy trở nên sống động, có hồn, ấn tượng xiết bao. Và nhờ đó, những cung bậc tâm trạng của nhân vật Mị trở nên phong phú, cụ thể.
Cho đến phút cuối cùng của những đêm tình mùa xuân ấy, khi Mị bị A Sử trói đứng vào cột nhà hòng dập tắt khát vọng, sức sống trong tâm hồn cô, thì tiếng sáo vẫn vấn vương bất diệt: Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào”. Mị vùng bước đi Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách Cả đêm ấy Mị phải trói đứng như thế, lúc thì khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức, lúc lại nồng nàn tha thiết nhớ, hơi rượu toả, tiếng sáo, tiếng chó sủa xa xanhững giây phút này, âm thanh của sáo không hiện rõ bằng hình hài, sắc điệu nữa. Nó lịm dần vào trong trái tim, nó cựa quậy trong máu thịt của cô Mị, cất lên thành tiếng lòng ru vỗ, an ủi. Cho nên, dù Mị vẫn đang bị trói, tiếng sáo vẫn đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. Nó vẫn cùng Mị say sưa hát bài tình ca Em yêu người nào, em bắt pao nào Khát vọng tuổi trẻ và tình yêu của Mị không trở thành hiện thực thì nó sống trong tâm hồn, trong mộng tưởng. Tiếng sáo - tiếng gọi của tự do, hạnh phúc, dây trói nào trói được? Nó đã chắp cánh cho sức sống của Mị bay lên. Kể cả lúc cái hiện thực phũ phàng hành hạ Mị: cô cảm thấy chân tay không cựa được, cô nghe thấy tiếng chân ngựa, tiếng chó sủa thì dường như tiếng sáo vẫn nhắc thầm trong tâm tưởng; lúc này là lúc trai gái rủ người yêu đó vách ra rừng chơi. Mị lại bồi hồi. Kể cả lúc khắp người Mị bị dây trói thít lại đau nhức. Mị vẫn nồng nàn tha thiết nhớ. Vì cô vẫn nghe thấy tiếng sáo. Trời tang tảng sáng. Có lẽ lúc này, những tiếng sáo hữu hình đã thực sự tắt. Chỉ còn dư âm của nó vang vọng trong lòng người: “ôm sầu mang giận ngẩn ngơ. Tiếng tơ lặng ngắt bây giờ càng hay”. Không rõ khi chuyển ngòi bút miêu tả sắc điệu cụ thể của những tiếng sáo hai đoạn trên thành phân tích tâm trạng đau xót, khi tuyệt vọng, lúc mộng mơ của nhân vật Mị trong dư âm tiếng sáo ở đoạn thứ ba này, nhà văn Tô Hoài có nghĩ tới nghệ thuật miêu tả tiếng đàn của Bạch Cư Dị trong thi phẩm nổi tiếng Tì bà hành ngày xưa? Dù thế nào, đọc những dòng văn này của ông, tôi vẫn thấy thấm đẫm một chất thơ, kính phục một tài năng miêu tả sư vật và khám phá lòng người. Qua cái âm thanh của một nhạc cụ, nhà văn đã tấu lên bao nhiêu thanh sắc của lòng người. Chỉ ba lần đặc tả tiếng sáo, nhưng mãi mãi, ông khẳng định rằng: khát vọng tuổi trẻ, tình yêu, cái sức sống tiềm tàng ấy của con người, không dây trói nào buộc được, không thế lực đen tối nào xoá được
Trong chuyện vợ chồng A Phủ, tiếng sáo của nhà văn Tô Hoài như chúng ta vừa cảm nhận cũng đã được trau chuốt bằng sắc màu, âm thanh đẹp đẽ, uyển chuyển, không thua kém bất cứ một áng thơ nào. Dường như, qua tài năng và tấm lòng yêu thương con người của ông, ngòi bút văn xuôi trở nên mềm mại, trữ tình. Hình tượng tiếng sáo trong thiên truyện đặc sắc này phong phú độc đáo và sâu lắng hơn. Đọc tác phẩm, suy ngẫm về sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị, chúng ta không thể lướt qua hình tượng thẩm mĩ tiếng sáo. Bởi vì đấy là một điểm sáng nghệ thuật vừa hiện thực, vừa lãng mạn, đậm chất dân tộc và chất thơ. Bởi vì, đấy cũng là một cung bậc tinh tế trong cảm hứng nhân đạo, nhân văn rất đáng trân trọng của ngòi bút Tô Hoài.

File đính kèm:

  • docVỢ CHỒNG A PHỦ - T.H..doc