Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh trong việc giảng dạy môn Ngữ văn

LỜI NÓI ĐẦU

Nghiên cứu khoa học vừa là niềm say mê, vừa là trách nhiệm của mỗi người đang đi trên con chiếm lĩnh tri thức. Thế giới khách quan bao gồm những sự vật hiện tượng vô cùng phong phú và đa dạng, là nguồn khám phá bất tận của con người. Nghiên cứu là đi sâu vào bản chất của vấn đề hay đi sâu vào một khía cạnh cụ thể.

Trong quá trình giảng dạy tại trường THCS Tiến Dũng- Yên Dũng - Bắc Giang song song với công tác giảng dạy thì việc nghiên cứu khoa học cũng là một công việc hết sức quan trọng. Đây là cơ hội tốt để giáo viên có điều kiện thâm nhập vào một đối tượng học sinh mới mẻ hơn, có điều kiện tích luỹ, mở rộng tầm hiểu biết vốn là vô hạn của con người.

Đứng trên cương vị là người đang trực tiếp giảng dạy, người nghiên cứu khoa học, tôi mạnh dạn đi vào nghiên cứu vấn đề: "Phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh trong việc giảng dạy môn Ngữ văn”.

 

doc11 trang | Chia sẻ: baobinh26 | Lượt xem: 738 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh trong việc giảng dạy môn Ngữ văn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút TẢI VỀ ở trên
rình và SGK chuẩn bị tốt cho học sinh dự các kỳ thi.
b. Nội dung.
Chú trọng hệ thống kiến thức lý thuyết sự phát triển tuần tự của các khái niệm định luật, học thuyết khoa học.
c. Phương pháp.
-Chủ yếu là thuyết trình giải thích minh hoạ. GV lo trình bày cặn kẽ nội dung bài học, tranh thủ truyền thụ vốn hiểu biết và kinh nghiệm của mình học sinh tiếp thu thụ động, có hiểu và nhớ những điều GV đã giảng giải.
-Giáo án được thiết kế theo trình tự đường thẳng chung cho cả lớp. GV dự kiến chủ yếu những hoạt động của chính mình, có hình dung đôi chút về những hành động hưởng ứng của học sinh. Trên lớp GV chủ động thực hiện giáo án theo các bước đã chuẩn bị.
d. Phương tiện.
Thiết bị dạy học (tranh ảnh, mô hình) được sử dụng chủ yếu như phương tiện minh hoạ cho lời trình bày của GV tạo thuận lợi cho sự tiếp thu của học sinh.
e. Tổ chức.
-Bài lên lớp được tiến hành chủ yếu trong phòng học mà bàn GV và bảng đen là trung tâm thu hút chú ý của học sinh. Học sinh thường ngồi theo bàn ghế dài 5 chỗ, bản trí thành 2 dãy cố định hướng lên bảng đen.
g. Đánh giá
-GV là người độc quyền đánh giá kết quả học tập của học sinh.
-Chú ý đến khả năng ghi nhớ và tái hiện kiến thức do GV cung cấp
-Tôn trọng lợi ích nhu cầu tiềm năng của học sinh.
-Chuẩn bị cho học sinh sớm thích ứng với đời sống xã hội hoà nhập và góp phần phát triển cộng đồng.
Không chỉ quan tâm đến kiến thức lý thuyết GV còn chú trọng các kỹ năng thực hành vận dụng kiến thức năng lực phát hiệnvà giải quyết các vấn đề thực tiễn của học sinh.
-GV tổ chức các hoạt động đọc lập hoặc theo nhóm nhỏ qua đó học sinh tự lực nắm các tri thức mới đồng thời rèn luyện được các phương pháp tự học.
-Giáo án được thiết kế theo kiểu phân nhánh. Những dự kiến của GV tập trung chủ yếu vào các hoạt động của học sinh cách thức tổ chức các hoạt động đó cùng với nhứng khả năng diễn biến để khi lên lớp có thể linh hoạt điều chỉnh thực hiện giờ học phân hoá theo trình độ năng lực của học sinh, tạo thuận lợi cho sự bộc lộ và phát triển tiềm năng của hcọ sinh.
Thiết bị dạy học được sử dụng như là nguồn thông tin dẫn học sinh đến những tri thức mới. Quan tâm vận dụng các phương tịên dạy học hiện đại để học sinh hoàn thành nhiệm vụ học tập theo tiến độ phù hợp với sức của mình.
Nhiều giờ học được tiến hành trong phòng bộ môn ngoài trời, viện bảo tàngtrong lớp thường dùng bàn ghế cá nhân hoặc bàn 2 chỗ ngồi có thể linh hoạt thay đổi cách bó trí thoe yêu cầu sư phạm của mõi hoạt động học.
-Học sinh tự giác chịu trách nhiệm về kết quả học tập của mình được tham gia tự dánh giá và đánh giá lẫn nhau về mức độ đạt yêu cầu trong quá trình học tập.
-GV quan tâm hướng dẫn cho học sinh phát triển năng lực tự đánh giá để tự điều chỉnh thích hợp cách học, khuyến khích cách học thônh minh sáng tạo, biết giải quyết các vấn đề nảy sinh trong những tình huống thực tế.
III. một bài dạy theo phương pháp mới cần đảm bảo một số nội dung sau.
-Phát huy được tính tích cự của học sinh ở cả bốn đối tượng: Giỏi, Khá , TB, Yếu. Với hệ thống câu hỏi: Câu hỏi phát hiện dành cho học sinh trung bình, câu hỏi bình dành cho học sinh khá và câu hỏi nhận xét đánh giá dành cho học sinh giỏi.
-GV phải tích hợp một cách hợp lý khi tích hợp đảm bảo.
+ Củng cố được kiến thức cũ.
+Lợi dụng kiến thức cũ để truyền đạt kiến thức mới.
+hướng tới những kiến thức sẽ học ở bài tiếp theo.
-Tổ chức được các hoạt động theo tổ và theo nhóm.
Một giờ dạy nhiều nhất là 3 hoạt động nhóm (mỗi hoạt động 5 phút), trong hoạt động nhóm phải chon những câu hỏi bắt buộc học sinh phải theo luận.
-Sử đụng và làm mới đồ dùng dạy học.
-Đổi mới khâu kiểm tra đánh giá.
-Coi trọng hiệu quả giờ dạy. Đối với giờ Tiếng việt có ít nhất 50% nắm được kiến thức. Trong giờ dạy Tiếng việt phần lý thuyết nhiều nhất là 25 phút. Gv phải hướng dẫn học sinh làm hết các bài tập trong SGK đặc biệt là bài tập sáng tạo.
-GV chú trọng hướng dẫn bồi dương phương pháp tự học tự nghiên cứu cho học sinh.
Iv. Những điều kiện áp dụng phương pháp tích cực.
GV phải là người thiết kế tổ chức các hoạt động để học sinh chiếm lĩnh kiến thức mới hình thành kỹ năng thái độ theo yêu cầu của chương trình. GV phải vừa có tri thức sau rộng vừa có trình độ SP lành nghề biết ứng xử tinh tế biết sử dụng các thiết bị dạy học hiện đại. 
Học sinh phải có mục đích học tập tự nguyện tham gia các hoạt động học tập, có ý thức trách nhiệm về kết quả học tập của mình, biết tự học và tranh thu học ở mọi nơi mọi lúc.
Chương trình và SGK phải giảm bớt khối lượng kiến thức tạo điều kiện cho thầy và trò tổ chức những hoạt động tích cực để học sinh tự nghiên cứu phát triển nội dung bài học.
Phải có các thiết bị dạy học thuận lợi cho cả GV và học sinh.
Việc kiểm tra đánh giá học sinh phải đổi mới về nội dung và hình thứ theo hướng phát huy trí thông minh sáng tạo của học sinh.
VD: Tiết 32. Miêu tả trong văn bản tự sự
A. Mục tiêu.
-Kiến thức: Thấy được yếu tố miêu tả có vai trò quan trọng trong việc miêu tả hành động, sự việc nhân vật trong văn bản tự sự.
-Kỹ năng: Rén kỹ năng vận dụng các phương thức biểu đạt trong một văn bản.
-Thái độ: Giáo dục học sinh rèn luyện kỹ nangư viết văn bản tự sự có yếu tố miêu tả.
B. Chuẩn bị.
- GV: Soạn bài đọc tư liệu.
 Máy chiếu bảng phụ.
- HS: Học bài cũ đọc trước bài mới.
C. Hoạt động dạy và học.
1. ổn định lớp.(1’)
2. Kiểm tra bài cũ.
3. Bài mới.
a.Giới thiệu.
b.Bài học.
Hoạt động của GV và HS
Nội dung
GV cho HS đọc ví dụ.
Gv nhận xét cách đọc.
+ Đoạn trích kể về sự việc (trận đánh) nào?
GV: Cũng kể về trận đánh đồn Ngọc Hồi.
có một bạn học sinh đã kể như sau:
GV treo bảng HS đọc.
+ Quan sát 2đoạn văn em thấy cả 2 đoạn có gì giống nhau? (Cùng kể về trận đánh đồn ngọc hồi).
+ Trong cả 2đoạn những đối tượng nào được nói đến (Vua Quang Trung, Quân Tây Sơn, Quân Thanh).
Quan sát một đoạn trên máy chiếu.
+ Em hãy tìm những chi tiết miêu tả Vua Quang Trung xuất hiệ trong trận đánh?
HS tìm GV gạch chân.
+ Em có nhận xét gì về phong thái của Vua Quang Trung? Ung dung, oai phong, lẫm liệt.
+ Thế còn Quân Tây Sơn hiện nên như thế nào? HS tìm GV gạch chân.
+ Khí thế đội quân này ra sao? Dũng cảm gan dạ, dũng mãnh.
GV: Trước một độ quân dũng mãnh, một vị chủ tướng oai phong lẫm lệt trực tiếp chỉ huy, Quân Thanh hiện lên qua chi tiết nào? HS tìm-GV gạch chân.
+ Bộ dạng của chúng như thế nào?
+ Vậy qua việc quan sát 2đoạn văn. Em thấy đoạ văn nào giúp mình hình dung ra trận đánh đồn Ngọc Hồi sinh động và hấp dẫn hơn? (đoạn của Ngô Gia Văn Phái). Vì sao? Vì sử dụng yếu tố miêu tả.
Qua đoạn văn với những chi ntiết miêu tả chúng ta thấy tiêng voi gầm, ngựa hí khí thế dũng cảm, của đội Quân Tây Sơn, một đội quân cảm tử, thấy được sự sợ hãi khiếp đảm của quân giặc. Ta như được chứng kiến tận mắt trận đánh đồn Ngọc Hồi qua những thước phim qoay chậm trước mắt.
Đoạn văn của bạn học sinh không sử dụng yếu tố miêu tả cho nên mới chỉ ghi lại được các sự việc xảy ra chứ chứ chưa trả lời được câu hỏi việc đó diễn ra cụ thể như thế nào hay chưa làm nổi bật được cảnh vật, nhân vật, sự việc.
GV: Từ việc quan sát so sánh 2 đoạn văn trên hãy nhận xét.
+ Yếu tố miêu tả có vai trò như thế nào tron văn bản tự sự?
GV cho HS đọc ví dụ.
+ đoạn văn kể về sự việc gì? (Tôn Sĩ Nghị và bọn lính sợ hãi bỏ chạy).
+ Em hãy tìm yếu tố miêu tả? HS tìm-GV gạch chân.
+ Bây giờ bỏ yếu tố miêu tả trong đoạn trích có được không? Vì sao? (bỏ đượưc nhưng văn bản không sinh động hấp dẫn).
+ Nếu bỏ yếu tố kể (tự sự) có được không? Vì sao? 
(không được, vì đó là yếu tố giúp ta hiểu nội dung văn bản).
+ Vậy nếu yếu tố kể (tự sự) và yếu tố miêu tả trong văn bản tự sự có vai trò nhươ thế nào?
GV: để khắc sâu vai trò của yếu tố miêu tả trong văn bản tự sự chúng ta sang phần luyện tâp.
HS đọc bài tập 1.
+ Bài tập 1 yêu cầu chúng ta điều gì? (có mấy yêu cầu).
- 2yêu cầu.
Gv chia lớp thành 3 nhóm.
Nhóm 1: Thuý Vân-phân tich
Nhóm 2: Thuý Kiều-phân tích.
Nhóm 3: Tình cảm-phân tích.
Chú ý nhóm 3 chỉ phân tích cảnh mở đầu-cảnh cuối về nhà. HS làm-GV nhận xét đưa ra đáp án.
GV hướng dẫn HS viết đoạn theo 2cách: diễn dich và quy nạp. Sau đó chữa và ra đáp án.
GV hướng dẫn HS tập nói-chú ý khi mở đàu và kết thúc.
I. Yếu tố miêu tả trong văn bản tự sự (15’)
Đoạn trích kể về trận đánh Ngọc Hồi.
- Vua Quang Trung: ung dung.
-Quân Tây Sơn: dũng mãnh.
-Quân Thanh: thất bại thảm hại.
* Ghi nhớ: 
* Lưu ý:
II. Luyện tập (26’).
Bài1: -Tìm hiểu yếu tố tả người ở đoạn trích chị em Thuý Kiều.
-Yếu tố tả cảnh ở đoạn trích, cảnh ngày xuân 
-Sau đó lần lượt đi phân tích giá trị của những yếu tố miêu tả đó.
Bài2: Viết 1đoạn văn miêu tả cảnh chị em Thuý Kiều đi chơi trong buổi ngày thanh minh.
Bài3: Tập nói trước lớp giới thiệu về vẻ đẹp cảu chị em Thuý Kiều. 
D. Hướng dẫn dặn dò (1’).
-Về nhà học và ghi nhớ.
-Làm tiếp bài tập : Phân tích giá trị của yếu tố tả cảnh khi tan hội (lúc 2 chị em Kiều ra về)
-Phân tích vẻ đẹp chung của 2 chị em
- Đọc trước bài sau.
-Ôn tập để viết bài
Phần thứ iii. 
Kết luận
GS.TS Nguyễn Khắc Phi đã khẳng định: "Không có phương pháp nào được coi là tối ưu trong việc giảng dạy, cũng không thể thiết kế những giáo án mẫu và phương pháp mẫu cho tất cả các giáo viên lên lớp". Việc đổi mới phương pháp chỉ thực sự đem lại kết quả khi mỗi giáo viên giảng dạy, luôn ý thức được yêu cầu đổi mới là quy luật tất yếu của ngành giáo dục. Người giáo viên nắm chắc các phương pháp và vận dụng khéo léo, linh hoạt, sáng tạo ở mỗi đơn vị kiến thức cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của mình.
Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy, trong những năm học vừa qua tôi cũng đã cố gắng thực hiện việc đổi mới phương pháp giảng dạy và chú trọng nhất là:
Phương pháp phát huy tính tích cực học tập của học sinh ở môn Ngữ văn và rút ra vài kinh nghiệm như trên.
Dù đã cố gắng rất nhiều xong bài tập nghiên cứu mà chúng tôi đưa ra đây, chắc không tránh khỏi những sơ xuất. Mong sự đóng góp ý kiến của cấp lãnh đạo để tôi tiếp tục hoàn thiện đề tài này ngày một tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tiến Dũng, ngày 25 tháng 05 năm 2006.
Người viết
 Ong Thị Thanh

File đính kèm:

  • docSANG KIEN KINH NGHIEN_THANH.doc