Tài Liệu Hướng Dẫn Học Tập Marketing Căn Bản
Marketing là một ngành học còn mới mẻnhưng phát triển rất nhanh với
nhiều thay đổi vềquan điểm, hướng tiếp cận, phương pháp nghiên cứu đã hình
thành nhiều trường phái khác nhau. Chính vì vậy, việc học tốt môn Marketing
Căn Bản là nền tản hết sức cần thiết đểnghiên cứu sâu hơn.
Trong chương trình đào tạo, Marketing Căn Bản là môn học mở đầu
cho một loạt những môn có liên quan mà các bạn sẽhọc trong các học kỳsắp
tới. Đó là các môn: hành vikhách hàng, nghiên cứu marketing, quản trị
marekting, quản trịbán hàng, quản trịthương hiệu, lập kếhoạch kinh doanh,
Marketing Căn Bản cho chúng ta nhìn thấy tổng quát vềngành học. Nó
trình bày vềsựra đời và phát triển của marketing, chức năng, các thành phần
của marketing, qui trình tiến hành marketing. Môn học sẽ đềcập và giải thích
hầu hết các khái niệm và thuật ngữtrong ngành. Nó nhấn mạnh vai trò quan
trọng của nghiên cứu marketing và cách thức tiến hành nghiên cứu. Phương
pháp phân tích marketing, phương pháp phân khúc thịtrường, lựa chọn thị
trường mục tiêu, định vịthương hiệu, hoạch định chiến lược và kếhoạch
marketing cũng được trình bày. Trọng tâm của môn học sẽtập trung vào 4P
của phối hợp marketing: sản phẩm, giá cả, phân phối và chiêu thị.
ên cho bất kỳ ai. Trong thực tế nó là một trong những công ty ít đảm bảo giờ nhất ở châu Aâu. Tình hình cạnh tranh đã gay gắt hơn đến mức độ là Carlzon đã phải suy nghĩ xem: + Ai là khách hàng của ta? + Nhu cầu của họ là gì? + Ta phải làm gì để cho họ ưa thích công ty? Carlzon đã quyết định rằng câu trả lời là phải tập trung các dịch vụ của SAS vào những doanh nhân bay thường xuyên và những nhu cầu của họ. Nhưng ông nhận thấy rằng các hãng hàng không khác cũng cố gắng chiếm lĩnh 90 khúc thị trường này. Họ đảm bảo chỗ ngồi rộng rãi hơn, đồ uống miễn phí và nhiều tiện nghi khác. Vậy SAS phải tìm cách làm những việc đó tốt hơn nếu nó muốn trở thành hãng hàng không được ưa thích. Điểm xuất phát là phải nghiên cứu thị trường để tìm ra cho được là những doanh nhân thường xuyên bay đó có mong muốn và trông đợi những gì ở cách phục vụ của hãng. Mục tiêu của ông là tìm cách làm tốt hơn 1% trong 100 việc hơn là làm tốt hơn 100% chỉ trong một việc. Kết quả nghiên cứu thị trường đã chứng tỏ rằng ưu tiên số một của loại hành khách doanh nhân là đảm bảo đến đúng giờ. Những hành khách này cũng mong muốn thủ tục ghi tên nhanh chóng và có thể nhận lại hành lý của mình mau lẹ. Carlzon đã cử ra hàng chục người chuyên nghiên cứu để tìm ra những ý tưởng cải tiến các dịch vụ đó. Họ quay về với hàng trăm kiến nghị, trong đó có 150 kiến nghị được chọn và chi phí để thực hiện là 40 triệu USD. Một trong những đề án quan trọng nhất là rèn luyện cho tất cả các công nhân viên của SAS ý thức toàn tâm toàn ý vì khách hàng. Carlzon hình dung là mỗi khách hàng trung bình phải tiếp xúc với năm nhân viân của SAS. Mỗi dịp tiếp xúc đó là một “khoảnh khắc chân thật” về SAS. Giả dụ mỗi năm có 5 triệu hành khách bay trên máy bay của SAS, thì như vậy là đã có 25 triệu dịp để thấy rõ sự thực về những điểm mà hãng hàng không đã thỏa mãn hay không thỏa mãn được khách hàng của mình. Để xây dựng thái độ đúng đắn với khách hàng trong toàn công ty hãng đã cử 10.000 nhân viên trực tiếp đi dự những khóa huấn luyện dịch vụ hai ngày và 25.000 cán bộ quản lý đi dự các khóa huấn luyện ba tuần. Carlzon xem nhân viên trực tiếp tiếp xúc với khách hàng là những người quan trọng nhất trong trong công ty. Còn về các cán bộ quản lý thì họ chỉ có vai trò giúp đỡ các nhân viên trực tiếp hoàn thành tốt công việc của họ. Còn vai trò của ông với cương vị chủ tịch, là giúp đỡ các cán bộ quản lý để họ có thể hỗ trợ được các nhân viên trực tiếp. Kết quả là trong vòng bốn tháng SAS đã đạt kỷ lục là một công ty hàng không đảm bảo bay đúng giờ nhất ở châu Aâu. Các hệ thống ghi tên hành 91 khách làm việc nhanh hơn nhiều, còn có cả dịch vụ đảm bảo cho những hành khách lưu trú tại các khách sạn của hãng Scandinavian Airlines có thể gửi thẳng hành lý của mình đến sân bay và đưa lên máy bay. Scandinavian đảm bảo việc bốc dỡ hành lý sau khi hạ cánh nhanh hơn nhiều. Một điểm đổi mới nữa là hãng bán toàn vé hạng sang, trừ khi hành khách muốn mua vé hạng thường. Tiếng tăm tốt đẹp của hãng trong giới kinh doanh đã làm tăng doanh thu về tiền bán vé ở châu Aâu lên thêm 8% và tiền bán vé liên lục địa lên đến 16%, một thành tích thật lớn vì trên thị trường vận chuyển đường không đang có sự cắt giảm gía và mức tăng trưởng bằng không. Ảnh hưởng của Carlzon đối với Scadinavian Airlines cho thấy rõ một điều là người lãnh đạo công ty có thể đảm bảo được sự hài lòng cho khách hàng và lợi nhuận cho công ty khi người đó xây dựng được một quan điểm và nhiệm vụ thống nhất cho toàn công ty, kích thích và buộc tất cả cán bộ công nhân viên đều hành động theo cùng một hướng, cụ thể là phấn đấu để thỏa mãn những khách hàng mục tiêu. CÂU HỎI: 1. Carlzon đã chọn khách hàng mục tiêu của SAS là ai, vì sao? 2. Carlzon đã làm gì để thỏa mãn khách hàng mục tiêu? 3. Phân tích yếu tố con người trong kinh doanh dịch vụ . 4. “Tìm cách làm tốt hơn 1% trong 100 việc hơn là làm tốt hơn 100% chỉ trong một việc” và “khoảnh khắc chân thật” là quan điểm của Carlzon, còn quan điểm của bạn thì sao? 92 Baøi taäp 3 CÔNG TY MỸ PHẨM R Công ty R là một cơ sở sản xuất mỹ phẩm và các loại kem thoa cao cấp nổi tiếng. Khoảng hơn một năm nay, ông Byron tổng giám đốc của công ty R đã phân tích những thành quả của 9 tháng gần đây và không được hài lòng. Vào kỳ họp kế đó của hội đồng quản trị, ông đã tuyên bố rằng R cần phải đạt được những lợi nhuận lớn hơn. Mọi người đều nhất trí cho rằng sự giảm sút về lợi nhuận là do trong hai năm gần đây, công ty đã không tung ra được một sản phẩm mới nào. Ban giám đốc được giao trách nhiệm nghiên cứu vấn đề này và phải tìm ra giải pháp. Ông Byron lập tức yêu cầu ban quy hoạch chương trình sản xuất làm ngay cho ông bản tường trình. Ông biết rằng ban này đang duyệt xét công thức một loại kem đánh răng mới, có thể đưa vào sản xuất ngay nếu cần phải có mặt hàng mới. Ban này đảm bảo với ông Byron là kem đánh răng mới này làm bằng hợp chất có chất lượng tuyệt hảo. Các cuộc thử nghiệm ở phòng thí nghiệm cho thấy kem đánh răng chưa được khai sinh này làm sạch răng nhiều hơn các loại kem đánh răng khác, chắc chắn nó sẽ đánh gục chúng và chiếm lĩnh được thị trường. Dựa trên cơ sở các cuộc thử nghiệm này, ông Byron kết luận rằng sản phẩm này đáp ứng đúng với những gì mà mọi người đang cần, và ông yêu cầu tiến hành ngay công việc sản xuất để tung sản phẩm mới ra thị trường. Ban marketing được yêu cầu tìm cho nó một cái tên, cũng như kiểu chai đựng và mẫu bao bì. Nhờ sự tích cực của nhiều ban ngành cố vấn, tiến trình công việc đã thực hiện nhanh chóng và hai tháng sau, kết quả được công bố sản phẩm có tên là “Smile” (nụ cười) và bao bì mang màu sắc thật quyến rũ. 93 Ban marketing quyết định đưa sản phẩm ày bán trong các tiệm thuốc tây. Ở đây thường giới thiệu các sản phẩm của R, cùng với những sản phẩm cao cấp khác có chất lượng và gía cả đều cao. Xưa nay, hãng R thành công là nhờ bán các sản phẩm qua trung gian của những điểm bán hàng này. Ban giám đốc cho rằng các khách hàng đã quen với phẩm chất hàng của hãng sẽ sẵn sàng một loại kem đánh răng tốt với gía mắc hơn. Hãng R đã thiết lập được những quan hệ khác nữa với các nhà buôn sỉ để họ bán lại cho khách hàng bán lẻ, cho nên việc phân phối kem đánh răng Smile không gặp trở ngại nào. Cho đến nay, kem Smile đã được tung ra thị trường 6 tháng rồi mà kết quả bán hàng không tốt đẹp mấy. Các nhà buôn sỉ cũng như bán lẻ đều ứ đọng hàng và khách mua rất ít. Thậm chí có một số nhà bán lẻ yêu cầu hãng R chấp thuận cho trả lại hàng không bán được. Họ có cảm tưởng là kem Smile không được thành công đối với giới tiêu thụ dù cho việc quảng cáo hết sức rầm rộ vượt lên trên mọi hãng cạnh tranh khác hỗ trợ cho kem Smile. Ông Byron yêu cầu bộ phận nghiên cứu thị trường phân tích tình hình và giải thích các kết quả đáng buồn đó. Bộ phận này tổ chức ngay một cuộc tiếp xúc sâu rộng với những người đã có dùng kem Smile rồi và một cuộc thử nghiệm về thị hiếu với những người chưa biết đến loại kem này. Một văn phòng nghiên cứu được thành lập để theo dõi các cuộc thử nghiệm. Họ công bố các kết quả trả lời của các khách hàng được tóm tắt như sau: - “ Loại kem tôi đang dùng rất hợp sở thích còn kem Smile có hương vị khủng khiếp!” - “Chưa bao giờ tôi thấy nhãn hiệu này ở siêu thị nơi mà tôi hay đến mua sắm.” - “Tôi thích loại kem tôi đang dùng, việc gì lại phải thay đổi cái khác?” - “Tôi sẽ chẳng tốn tiền cho một loại kem khá đắt mà cũng không hơn gì các thứ khác!” 94 CÂU HỎI: 1. Hãy phân tích các nguyên nhân của thất bại. 2. Bạn đề nghị những giải pháp gì với ông Byron? 95 HƯỚNG DẪN GIẢI CÁC BÀI TẬP Bài 5 – trang 48 Lập công thức tính giá bán theo phương pháp dựa vào chi phí cho doanh nghiệp dịch vụ lữ hành: G = Z + m Thay số vào ta có: G = 216 + 10%.G Giải phương trình này, tìm được G = 216 : 0,9 = 240 (USD) Như vậy, doanh nghiệp dịch vụ lữ hành đã bán cho nhà bán sỉ tour với giá là 240 USD, đây có thể xem là chi phí của nhà bán sỉ. Tính giá bán cho nhà bán sỉ tour: G = Z + m G = 240 + 20%.G Giải ra, G = 240 : 0,8 = 300 (USD) Như vậy, nhà bán sỉ tour đã bán cho nhà bán lẻ tour với giá là 300 USD, đây có thể xem là chi phí của nhà bán lẻ. Tính giá bán cho nhà bán lẻ tour: G = Z + m G = 300 + 30%.G Giải ra, G = 300 : 0,7 = 428, 56 (USD) Trả lời giá bán tour cho du khách đi lẻ là 428, 56 USD Bài 6 – trang 49 Đây là bài toán ngược lại với bài trên, phải tính từ nhà bán lẻ tour để tìm ra chi phí của họ. G = Z + m 1200 = Z + 25%.1200 Giải phương trình này, tìm được Z = 1200 - 25%.1200 = 900 (USD); đây có thể xem là giá bán của nhà bán sỉ. Ta tìm ra chi phí của nhà bán sỉ: 96 G = Z + m 900 = Z + 20%.900 Giải phương trình này, tìm được Z = 900 - 20%.900 = 720 (USD); đây có thể xem là giá bán của nhà sản xúât dịch vụ lữ hành và đề bài cho biết giá thành của doanh nghiệp là 648 USD. Ta tìm ra lợi nhuận của nhà sản xúât dịch vụ lữ hành : G = Z + m 720 = 648 + m Giải phương trình này, tìm được m = 720 - 648= 72 (USD) Như vậy, mức lợi nhuận của doanh nghiệp dịch vụ lữ hành so với giá bán của họ là 72 (USD) : 720 (USD) = 10 (%) 97 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Quách Thị Bửu Châu và các tác giả khác, Marketing căn bản, NXB Thống kê, TPHCM, 2005 2. Trần Xuân Kiêm và Nguyễn Văn Thi, Nghiên cứu tiếp thị, NXB Thống Kê, 2001. 3. Philip Kotler (Vũ Trọng Hùng dịch), Quản trị marketing, NXB Thống kê, TPHCM, 1997. 4. Philip Kotler (Huỳnh Văn Thanh dịch), Những nguyên lý tiếp thị, NXB TP. HCM, 1994. 5. Vũ Thế Phú, Marketing căn bản, Đại học Mở bán công TP.HCM, 1996. 6. Vũ Thế Phú, Quản trị marketing, NXB Giáo dục, TPHCM, 1998. 7. Nguyễn Xuân Quế và các tác giả khác, Marketing căn bản, NXB Thống kê, TPHCM, 1998. 8. Nguyễn Đình Thọ & Nguyễn Thị Mai Trang, Nguyên lý marketing, NXB ĐHQG TP. HCM, 2003. 9. Hoàng Trọng và Nguyễn Văn Thi, Quảng cáo, NXB ĐHQG TP.HCM, 2000. 98
File đính kèm:
- Marketing can ban.pdf