Tập huấn đổi mới kỹ thuật ra đề kiểm tra theo dạng câu hỏi của PISA lĩnh vực đọc - hiểu
Đánh giá PISA là đánh giá năng lực HS
I. Định nghĩa về năng lực đọc hiểu của PISA
Năng lực đọc hiểu bao gồm một tập hợp các năng lực nhận thức, từ việc giãi mã căn bản đến các kiến thức về từ ngữ, ngữ pháp, ngôn ngữ, cấu trúc văn bản và cách trình bày, tới kiến thức về thế giới. Nó cũng bao gồm cả các năng lực nhận thức mở rộng: kiến thức và khả năng sử dụng các kế hoạch thích hợp khi tiếp cận xử lí văn bản.
PISA 2009 xác định năng lực đọc hiểu là: Hiểu, sử dụng, phản ánh và liên kết các văn bản, nhằm đạt được mục đích của mỗi nội dung, nhằm phát triển kiến thức và tiềm năng và để tham gia vào xã hội. (chú trọng tính thực tiễn)
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NINH THUẬNTẬP HUẤN ĐỔI MỚI KỸ THUẬT RA ĐỀ KIỂM TRA THEO DẠNG CÂU HỎI CỦA PISALĨNH VỰC ĐỌC - HIỂU Phan Rang – TC, ngày 27 tháng 9 năm 2012 Đánh giá PISA là đánh giá năng lực HS I. Định nghĩa về năng lực đọc hiểu của PISA Năng lực đọc hiểu bao gồm một tập hợp các năng lực nhận thức, từ việc giãi mã căn bản đến các kiến thức về từ ngữ, ngữ pháp, ngôn ngữ, cấu trúc văn bản và cách trình bày, tới kiến thức về thế giới. Nó cũng bao gồm cả các năng lực nhận thức mở rộng: kiến thức và khả năng sử dụng các kế hoạch thích hợp khi tiếp cận xử lí văn bản. PISA 2009 xác định năng lực đọc hiểu là: Hiểu, sử dụng, phản ánh và liên kết các văn bản, nhằm đạt được mục đích của mỗi nội dung, nhằm phát triển kiến thức và tiềm năng và để tham gia vào xã hội. (chú trọng tính thực tiễn) II. Các dạng văn bản đọc hiểuVăn bản dài: gồm nhiều dạng kiểu văn xuôi như tường thuật, trình bày.Văn bản không liên tục: gồm bảng biểu, biểu mẫu, danh sách.Văn bản kết hợp: gồm văn bản dài và văn bản không liên tục.Văn bản phức hợp: gồm văn bản độc lập có cùng hoặc khác định dạng.( vb quảng cáo) III. Cấu trúc đề thiTừ 50 đến 60 trang gồm 1 trang bìa; trang công thức; unit (đọc nhanh, lướt, đọc câu hỏi trước khi đọc văn bản). Thời gian làm bài 120 phút. IV. Các dạng câu hỏiTrắc nghiệm khách quan (lưu ý khoanh tròn một lựa chọn)Câu hỏi đúng/sai hoặc có/khôngCâu hỏi mở (ngắn): mặc định một đáp án duy nhất đúng. Vd: Tác giả của T.Kiều là ai?Câu hỏi mở (dài): khi trả lời thường phải đưa ra quan điểm rõ ràng và lập luận để bảo vệ quan điểm của mình. Không đánh giá về sự đúng sai, chủ yếu kiểm tra sự phát triển tư duy của HS – tư duy phản biện.V. Các câu hỏi đánh giá năng lực đọc hiểu ở 3 cấp độThu thập thông tinPhân tích lí giải văn bảnPhản hồi và đánh giá VI. Mã hóa trong PISACác dạng câu hỏi mở phải mã hóa. Những câu hỏi nhiều lựa chọn; đúng/sai không mã hóa.Mã 1. Mức đầy đủ.Mã 2. Mức chưa đầy đủ.Mã 0. Có ghi nhưng sai (không có ý nào đúng hoặc lập luận sai).Mã 9. Không ghi gì (để giấy trắng không trả lời câu hỏi đó).VII. THỰC HÀNHĐọc văn bản dưới đây để trả lời các câu hỏi liên quanVỊ QUAN TOÀ CÔNG TÂM Vị vua Algeria tên là Bauakas muốn tìm hiểu xem là có đúng trong thành phố của ông có một vị quan toà có khả năng tìm ra sự thật rất nhanh, và không có tên lừa đảo nào qua mặt được như ông đã nghe kể hay không. Bauakas đổi quần áo của thương nhân và lên ngựa tới thành phố nơi vị quan toà sống. Trên đường vào thành phố, một người tàn tật lại gần và cầu xin nhà vua bố thí. Bauakas cho anh ta tiền và định đi tiếp thì ông ta túm lấy quần áo của ông. Anh muốn gì nữa? Nhà vua hỏi. Chẳng lẽ tôi chưa cho anh tiền sao?Ông đã bố thí cho tôi rồi. Người tàn tật nói. Giờ ông hãy ban cho tôi một ân huệ. Xin cho tôi quá giang một đoạn đường vào quảng trường thành phố. Tới đây, ông dừng ngựa nhưng người tàn tật không xuống. Chúng ta đã đến quảng trường, tại sao anh không xuống? Bauakas hỏi. Sao tôi phải làm thế? Gã ăn xin đáp lại. Con ngựa này là của tôi. Nếu ông không muốn trả lại, chúng ta sẽ đến toà giải quyết. Nghe thấy cãi nhau, người xung quanh bảo họ: Đến gặp quan toà đi, ông ấy sẽ giải quyết cho hai người. Bauakas và người tàn tật đến gặp vị quan toà. Ở toà đang có nhiều người khác, vị quan gọi từng người theo thứ tự. Trước khi đến lượt Bauakas và người tàn tật, vị quan toà đang nghe chuyện của một trí thức và người nông dân. Họ đến cùng một phụ nữ. Người nông dân cho biết đó là vợ ông, còn người học giả lại bảo của mình. Vị quan toà nghe xong im lặng một lúc rồi nói: Để người phụ nữ này ở đây, ngày mai hai người quay lại. Khi hai người kia đi khỏi, có người bán thịt và người bán dầu đến trước vị quan toà. Người bán thịt đính đầy máu còn người bán dầu dính đầy dầu. Trong tay người bán thịt cầm tiền còn người bán dầu đang giữ tay anh ta. Tôi đang mua dầu của người này. Người bán thịt kể. Khi tôi đang rút ví lấy tiền để trả, hắn liền túm lấy tay tôi và cố lấy tiền của tôi. Đó là nguyên nhân chúng tôi đến gặp ngài – tôi đang giữ ví của mình, còn hắn đang cầm tay tôi. Nhưng đây là tiền của tôi. Hắn chính là tên ăn cắp. Đến lượt người bán dầu kể. Đó không phải là sự thật. Anh ta kể. Người bán thịt đến mua dầu. Sau khi tôi đã đổ đầy chai dầu, hắn nhờ tôi đổi một mẫu vàng. Khi tôi lấy tiền ra và đặt lên ghế, hắn đã tóm lấy và định chạy trốn. Tôi nhanh tay túm lấy hắn, và như ngài thấy, tôi đem hắn đến cho ngài xử. Vị quan toà im lặng một lúc rồi nói: Để tiền lại đây. Ngày mai hai người quay lại. Khi đến lượt mình, Bauakas kể lại chuyện xảy ra. Vị quan toà lắng nghe sau đó yêu cầu kẻ ăn mày kể. Tất cả những gì hắn nói không phải sự thật. Tên ăn mày nói. Hắn đang ngồi dưới đất, gặp tôi đi vào thành phố, hắn xin đi nhờ. Tôi cho hắn lên ngựa đi cùng và đưa hắn tới nơi cần đến. Nhưng khi chúng tôi đến đấy, hắn không chịu xuống mà còn cãi đây là ngựa của hắn. Đó không phải là sự thật. Vị quan toà suy nghĩ một lát rồi bảo. Để con ngựa ở đây, ngày mai hai người quay lại. Ngày hôm sau, nhiều người đến toà nghe phán quyết của vị quan. Đầu tiên là vụ của nông dân và trí thức Đưa vợ ông đi. Vị quan nói với người trí thức. Tên nông dân này bị phạt đánh 50 roi. Người trí thức dẫn vợ đi còn người nông dân ở lại chịu phạt. Tiếp đến người quan toà gọi người bán thịt. Tiền này là của anh. Ông nói. Sau đó vị quan chỉ vào kẻ bán dầu và nói: Phạt đánh hắn 50 roi. Sau đó ông gọi Bauakas và tên ăn mày. Ông có thể nhận ra con ngựa của ông giữa một đàn có 20 con không? Vị quan hỏi Bauakas. Tôi nhận được. Đức vua đáp. Còn anh? Ông hỏi người tàn tật. Tôi nhận được. Hắn trả lời. Đi theo tôi. Vị quan toà nói với Bauakas. Họ đến chuồng ngựa. Bauakas chỉ ngay vào con ngựa của ông đang đứng giữa 20 con khác. Tiếp đến, vị quan toà đưa người tàn tật đến chuồng ngựa nhận dạng. Hắn nhận ra ngựa và chỉ vào nó. Vị quan quay về toà và ngồi xuống ghế. Mang con ngựa đi. Nó là của ông. Vị quan toà nói với Bauakas. Phạt tên ăn mày này 50 roi. Khi quan toà trở về nhà, Bauakas đi sau ông. Ông cần gì nữa? vị quan toà hỏi. Chẳng lẽ ông không vừa lòng với phán quyết của tôi à? Tôi hài lòng. Bauakas trả lời. Nhưng tôi rất muốn được biết là tại sao ông biết người phụ nữ kia là vợ của học giả, tiền là của người bán thịt, con ngựa là của tôi chứ không phải của tên ăn xin. Đây là lí do tôi biết thân thế của người phụ nữ. Sáng nay tôi đưa cho chị ta và nói: Hãy đổ đầy lọ mực cho tôi. Chị ta cầm lấy, nhanh chóng và khéo léo rửa sạch, sau đó đổ đầy mực vào. Do đó đây chắc hẳn là công việc chị ta quen làm. Nếu là vợ của nông dân, chị ta sẽ không biết làm việc này. Điều đó chứng tỏ người trí thức nói thật. Và đây là lí do tôi biết về số tiền. Tôi thả tiền vào một cốc nước đầy. Sáng ra tôi quan sát xem có dầu nổi trên mặt nước hay không. Nếu là của người bán dầu, tiền này sẽ dính dầu. Nhưng không có dầu nổi trên mặt nước nên người bán thịt đã nói thật. Còn chuyện tìm ra ngựa thì phức tạp hơn. Người tàn tật đã nhận ra ngựa giữa 20 con khác và ông cũng thế. Tuy nhiên mục đích tôi đưa 2 người vào chuồng ngựa không phải để nhận dạng mà tôi muốn xem chú ngựa biết ai. Khi ông lại gần, chú ngựa ngoái đầu lại nhìn và rướn cổ về phía ông; nhưng khi người tàn tật chạm vào, nó vễnh tai và nâng chân lên. Theo đó, tôi biết ông chính là chủ nhân thực sự của chú ngựa này. Bauakas nói với vị quan toà. Tôi không phải dân buôn mà là vua Bauakas. Tôi đến đây để chứng thực những lời đồn về ông. Tôi thấy ông là vị quan thông minh. Hãy nói cho tôi biết ông muồn gì, ông sẽ nhận được như một phần thưởng của tôi.Câu hỏi 1. Ở phần đầu câu chuyện, chúng ta được biết Bauakas đã đổi quần áo với một thương nhân. Tại sao Bauakas không muốn bị phát hiện?A. Ông muốn biết liệu mình có được tuân lệnh ngay cả khi cải trang thành dân thường.B. Ông dự định xuất hiện trước vị quan toà trong vai của một thương nhân.C. Ông thích cải trang để đi lại tự do và trêu chọc người khác.D. Ông muốn quan sát vị quan toà làm việc như bình thường, không bị ảnh hưởng khi nhà vua xuất hiện.Câu hỏi 2.Vị quan toà dùng cách nào để biết người phụ nữ là vợ của học giả?Bằng cách quan sát hình dáng. Đúng / SaiBằng cách theo dõi chị ta phản ứng với người nông dân và người trí thức. Đúng / SaiBằng cách kiểm tra kinh nghiệm làm việc giúp đỡ chồng. Đúng / SaiCâu hỏi 3. Em có nghĩ rằng vị quan tuyên cùng một hình phạt cho các tội phạm là công bằng hay không? Vì sao? Câu hỏi 4. Trong truyện này, những tên tội phạm đã bị pháp luật trừng trị. Có điểm gì giống và khác giữa pháp luật và công lí ở nước các em với pháp luật và công lí trong câu chuyện này?
File đính kèm:
- Tap huan ra de kiem tra dang PISA.ppt