Thơ của Bùi Giáng
1926 được bà mẹ đẻ ra đời
1928 bị té bể trán, vết sẹo còn nguyên kỷ niệm hai năm trời chết đi sống lại
1933 bắt đầu đi học a, b, c. trường làng tại Thanh Châu với Thầy Cù Đình Qúy
1936 học trường Bảo An với thầy Lê Trí Viễn
1939 ra Huế học tư thục với những thầy Cao Xuân Huy, Trần Đình Đàn, Hoài Thanh Nguyễn đức Nguyên, Đào duy Anh, vân vân
1940 về Quảng Nam chăn bò
1942 trở ra Huế, vì nhớ nhung gái Huế
1949 nhập ngũ bộ đội công binh. Hai năm sau giải ngũ
gọi bằng nhà Nhà ơi ! tôi gọi mình là nhà tôi * * * Ngày sẽ hết tôi sẽ không ở lại Tôi sẽ đi và chưa biết đi đâu. * * * Ta đi còn gởi đôi giòng Lá rơi có dội ở trong sương mù * * * Người qua tôi cũng đi qua Người dừng tôi cũng qua loa tạm dừng * * * Giả từ cõi mộng điêu linh Tôi về buôn bán với mình phôi pha. * * * Tâm tùy thị hiện sát na Căn do Hoàng thị đầu hoa Chiên Đàn Cội hồng ánh ngọc cưu mang Tờ rung Hoa Tạng dư vang vô ngần. Nguyễn Huệ Bùi Giáng Rừng cô tịch ngóng nội đồng trổ hoa... Người đi vòng chuyến đó Núi rừng cây lá vang Ánh trời trưa rực đỏ Ráng chiều thắm pha vàng Mười vạn quân theo gót Tha thiết một niềm tin Mây trời cao chót vót Giòng nước suối động mình Bàn chân người đặt xuống Bàn chân người bước lên Miệng cười trong ý chuộng Lời sông núi van xin Người qua sông Giản Thủy Người tới huyện Phú Xuyên Hà Hồi chiêng trống giậy Ngọc Hồi rợp bóng tinh Người trở về từ đó Với nàng công chúa kia Đầu mùa trăng rạng tỏ Hoa bướm vội tan lìa Đời sau thương tiếc mãi Tự hỏi vì cớ chi ? Gian thần nào ám hại Hoặc có thể chỉ vì Ngày băng rừng heo hút Muỗi rừng cắn thịt da Sốt rét rừng thiêu đốt Nên người vội băng hà ? Người không thể nấn ná Ở thêm một thời gian ? Sáu quân chưa thỏa dạ Sông núi phụ muôn vàn Thôi xin người đừng nức nở Nếu sau này đường dang dở Những ai về Ôm mãi mộng người đi Ông Điên Bùi Giáng Ông điên từ bữa hôm qua Tới hôm nay nữa gọi là ba hôm Thanh thiên về dự hội đàm Thành thân thiên hạ muôn vàn mai sau * * * Ông điên từ một lần đầu Tới lần đuôi đứt ruột rầu rĩ đau Tuyệt mù biển cạn sông sâu Bụi hồng tản mác trước sau bây giờ 1996 Mái hiên Bùi Giáng Bay về ổ chín từng cao con chim giã biệt chào mái hiên nước lang thang cháy xà miền vòng quanh ngõ nọ mà triền miên chi tôi người thủy thủ ra đi chân trời thấy nước đợi kỳ lên mây sao đêm đố xuống triều đầy ai đưa kiếm vút ngang mày hư không gió theo cánh ngỗng ngang trời chớ sương tuyết cũ lại đời phiêu linh từ đây ta hẹn với mình hồn trong cõi mộng biên đình chưa tan đầu hiên cung bậc điêu tàn lần kia đổ giậu giọng vàng xô mau lạnh lụng dấu bước bờ sau mấy đời ly biệt về đau trong mình năm sầu sa mạc nín thinh đi vào giá buốt mông mênh cuối trời DZÁCH Bùi Giáng Nỗi buồn nỗi khổ đời xưa Nỗi sung sướng đến móc mưa bất ngờ Đời xưa đất đá đều đờ đẫn điên Đời này đất đá cằn khô Điên duỗi dọc, điên ngửa nghiêng Điên là hạnh phúc thần tiên ở đời Điên rồi rốt cuộc hỡi ôi Cũng đành chấm dứt lìa đời hết điên 1996 Bùi Giáng: Một tâm hồn mênh mang ảo diệu Không chỉ làm thơ, dịch tiểu thuyết, viết sách khảo luận triết học, Bùi Giáng còn viết rất nhiều tùy bút văn học, đặc biệt là tùy bút về thơ. Đọc những tùy bút này, ta nhìn thấy tâm hồn ông mênh mang ảo diệu, thăm thẳm như bầu trời. Ông cảm nhận được những điều tinh vi huyền bí nhất của thi ca. Ông đúng là tri âm của các thi sĩ. Chúng tôi xin giới thiệu một bài trong số đó, đây là bài Bùi Giáng viết về Tuệ Sỹ, trích trong tập Đi vào cõi thơ. Tuệ Sỹ là một vị sư. Ông viết văn quá nghiêm túc, những sở tri của ông về Phật học quả thật quảng bác vô cùng. Thấy ông vẻ người khắc khổ, không ai ngờ rằng linh hồn kia còn ẩn một nguồn thơ thâm viễn u u... Một bữa ông đọc cho tôi nghe hai câu thơ chữ Hán của ông: Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi Ông bảo làm sao tiếp cho hai câu để nên một bài tứ tuyệt. Tôi đề nghị với ông nên nhờ ni cô Trí Hải tiếp giùm. Ông ngượng nghịu bảo tôi đừng nên rỡn đùa như thế. Vậy tôi xin lai rai thử viết: Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi Phiêu bồng tâm sự tân toan lệ Trí Hải đa tàm trúc loạn ty Và xin ông chả nên lấy thế làm bực mình. Nhưng ai có ngờ đâu nhà sư kín đáo e dè kia, không hề bao giờ có vướng lụy, lại còn mang một nguồn thơ Việt phi phàm ? Một bài thơ "Không đề" của ông đủ khiến ta khiếp vía mất ăn mất ngủ: Đôi mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn Mới nghe bốn câu thôi, tôi đã cảm thấy lạnh buốt linh hồn, tê cóng cả cõi dạ. Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan Cười với nắng một ngày sao chóng thế Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ Bụi đường dài gót mỏi đi quanh Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn Tôi hoảng vía đề nghị: Đại sư nên gác bỏ viết sách đi. Và làm thơ tiếp nhiều cho, nếu không thì nền thi ca Việt mất đi một thiên tài quá lớn. Ông đáp: Để về hỏi lại ni cô Trí Hải xem có đúng như lời thế chăng. Đôi mắt ướt tuổi vàng Khung trời Hội cũ Xin xuống dòng thư thả như thế. Ắt nhìn thấy chất trang trọng dị thường của hoài niệm. Hoài niệm gì ? - Khung trời hội cũ. Một hội Đạp thanh ? Một hội nao nức ? - "Giờ nao nức của một thời trẻ dại ?". Đôi mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ... Mở lời ra, nguồn thơ trực nhập vào trung tâm cơn mộng chiêm niệm. Đầy đủ hết mọi yếu tố bát ngát: một cung trời xán lạn bao la, một hội cũ xao xuyến, một tuổi vàng long lanh... Một đôi mắt ướt ngậm ngùi của hiện tại. Nhưng mạch thơ đi ngầm. Tiết nhịp âm thầm nhiếp dẫn. Thi sĩ không cần tới một hình dung từ nào cả, vẫn nói được hết mọi điều "phải nói" với mọi người "muốn nghe" với riêng mình "không thiết chi chuyện nói". Người thi sĩ xuất chúng xuất thần thường có phong thái khác thường đó. Họ nói rất ít mà nói rất nhiều. Họ nói rất nhiều mà chung quy hồ như chẳng thấy gì hết. Họ nói cho họ, mà như nói hết cho mọi người. Nói cho mọi người mà cơ hồ chẳng bận tâm gì tới chuyện thiên hạ nghe hay chẳng nghe. Nỗi vui, nỗi buồn của họ, dường như chẳng giống lối vui buồn của chúng ta. Do đó chúng ta trách móc họ một cách lệch lạc hết cả (par manque de justice interne). Trong một cuộc vui, ta hỏi họ vài điều. Họ lơ đễnh thờ ơ, ta tưởng họ kiêu bạc. Trong lúc mọi người đang gào khóc giữa đám tang, họ phiêu nhiên đi qua, trông có vẻ như mỉm cười, niêm hoa vi tiếu. Ta tưởng họ tàn nhẫn thô bạo. Vua Gia Long ngày xưa đã từng lấy làm quái dị về thái độ Nguyễn Du: "Trẫm dùng người, không phân biệt kẻ Nam kẻ Bắc. Ai có tài thì trẫm trọng dụng (... ...). Cớ sao khanh lại u sầu ít nói suốt năm như thế ?". Ông vua kia lấy làm lạ là phải lẽ lắm, hợp với lương tri thói thường thiên hạ lắm. Ông không thể hiểu vì sao vị di thần kia cứ miên man như nằm trong cõi mộng thần di, hồn dịch ! Vua đã ban cho chan hòa mưa móc, lộc trọng quyền cao đặc ân thâm hậu như thế, cớ sao Liệp Hộ chưa vừa lòng, vẫn chưa cứ thả mộng chạy lang thang về chân trời hướng khác. Đáp: Ấy chính bởi đôi mắt nhìn đây mà thấy những đâu đâu. Đôi mắt ướt tuổi vàng Khung trời hội cũ Đôi mắt ướt ? Đôi mắt của ai ? Vì sao ướt ? Vì lệ trào, hay là vì quá long lanh ? Thi sĩ không nói rõ. Ấy là giữ một khoảng trống vắng lặng phóng nhiệm cho thơ. Tha hồ chúng ta tự do nghĩ hai ba lối. Hoặc là đôi mắt thi nhân ướt trong hiện tại vì nhớ nhung một trời hội cũ. Hoặc là đôi mắt giai nhân nào long lanh dịu mật như nước suối chan hòa, soi bóng một khung trời hội cũ bất tuyệt nào, mà ngày nay tại hạ đã đánh mất rồi chăng ? "Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang" Áo nào màu xanh ? Màu xanh màu chàm của cô gái Mán gái Mường, gái núi nào xưa kia băng rừng và thi nhân đã ngẫu nhiên một lần nhìn đắm đuối ? Tôi nói không sai sự thật mấy đâu. Vì Tuệ Sỹ vốn xưa kia ở Lào. Cha mẹ ông kiều cư trên đất Thượng Lào Trung Việt. Bà mẹ ông thỉnh thoảng cũng trở về Sài Gòn tới chùa viếng ông đem quà cho ông một đôi dép riêng biệt, một tấm khăn quàng riêng tây. Đôi mắt ướt tuổi vàng Khung trời hội cũ Áo màu xanh Không xanh mãi Trên đồi hoang Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ. Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ ? Mình là thân Bồ tát, quanh năm kinh kệ trai chay, thế sao bỗng nhiên một phút vội vã lại dám làm thân du thủ ? Dám gác bỏ kệ kinh ? Dám mở cuộc thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn ? Phải có nhìn thấy khuôn mặt khắc khổ chân tu của Tuệ Sỹ, mới kinh hoàng vì lời nói thăm thẳm đơn sơ nọ. Lời nói như ngân lên từ đáy sâu linh hồn tiền kiếp, từ một quê hương trên thượng du bao la rừng núi gió sương canh chiều nguyệt rung rinh trong đêm lạnh. Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan Cười với nắng một ngày sao chóng thế Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng Mối tình rộng thả suốt biển non im lìm lạnh lẽo. Một hạt muối vẫn chưa tan. Một nếp u ẩn của lòng mình bơ vơ không gột rửa. Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan Ta tưởng như nghe ra "cao cách điệu" bi hùng của một Liệp Hộ, một Nerval, một chỗ trầm thanh nhất trong cung bậc Nietzche. Thi nhân đã mấy phen ngồi ngó trăng tàn ? Ngồi trên một đỉnh đá ? Bốn bề rừng thiêng giăng rộng ngút ngàn màu trăng xanh tiếp giáp tới chân trời xa xuôi đại hải? Đỉnh đá và hạt muối là hai chốn kết tụ tinh thể của núi và biển. Đỉnh đá quy tụ về mọi hương màu trời mây rừng rú. Hạt muối chứa chất cái lượng hải hàm của trùng dương. Đó là cái bất tận của tâm tình sừng sững tại giữa tuế nguyệt phiêu du: Cười với nắng một ngày sao chóng thế Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng Một tiếng "buồn chăng" lơ lửng nửa như chất vấn, nửa như ngậm ngùi ta thán, dìu về cả một khúc tâm thanh đoạn trường: Sen tàn cúc lại nở hoa Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ Bụi đường dài gót mỏi đi quanh Tiết nhịp lời thơ lại biến đổi: Đếm tóc bạc Tuổi đời Chưa Đủ Bụi đường dài Gót Mỏi Đi Quanh Tiết điệu rạc rời như gót mỏi đi quanh. Một tuổi đời chưa đủ ? Một tuổi xuân chưa vừa ? Một tuổi vàng sớm chấm dứt ? Một tuổi "đá" sớm từ giã mọi yêu thương ? Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ Suối nguồn xa Ngược nước Xuôi ngàn Bài thơ dừng lại. Dư âm bất tuyệt kéo dài trong đêm lữ thư khép mình trong bốn bức tường với nhạt nhòa ủ rũ ngục tù. Chỉ một bài thơ, Tuệ Sỹ đã trùm lấp hết chân trời mới cũ Đường Thi Trung Hoa tới Siêu Thực Tây Phương. BÙI GIÁNG (TN)
File đính kèm:
- Thơ của Bùi Giáng.doc