Thơ Nguyễn Du

Tiểu Sử Tác Giả

 

Nguyễn Du: (1765-1820)

Cụ tự là Tố Như, hiệu Thanh Hiên, người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Tỉnh Hà Tĩnh. Tổ tiên nhà cụ đời đời làm quan với nhà Hậu Lê. Cụ có khí tiết: sau khi Tây Sơn dứt nhà Lê, cụ không chịu ra làm quan, chỉ lấy chơi bời săn bắn làm vui, trong chín mươi chín ngọn núi Hồng Sơn (ở vùng Nghệ An, Hà Tĩnh) không chỗ nào cụ không đi tới.

Năm Gia Long nguyên niên (1802), cụ được triệu ra làm tri huyện huyện Phù Dực (nay thuộc Tỉnh Thái Bình), rồi được ít lâu thăng tri phủ Thường Tín (Hà Đông). Năm thứ tám (1809), cụ ra làm cai bạ tỉnh Quảng Bình. Năm thứ mười hai (1813), thăng Cần chánh điện học sĩ, sung làm chánh sứ sang cống bên Tàu. Đến khi về, thăng Lễ bộ hữu tham tri. Năm Minh mệnh nguyên niên (1820), lại có mệnh sang sứ Tàu, nhưng chưa kịp đi thì cụ mất, thọ 56 tuổi.

Cụ học rộng, không những tinh thâm nho học, lại thông đạt cả đạo Phật, đạo Lão. Cụ làm nhiều thơ văn và sách vở bằng chữ nho, như Thanh hiên tiền hậu tập, Bắc hành thi tập, Nam trung tạp ngâm, Lê quý kỷ sự. Cụ lại có biệt tài về văn nôm. Khi đi sứ Tàu về, cụ có soạn quyển truyện Thúy Kiều mà nguyên lúc đầu tác giả đặt nhan là Đoạn trường tân thanh (đoạn trường: đứt ruột; tân thanh: tiếng mới).

 

doc22 trang | Chia sẻ: baobinh26 | Lượt xem: 520 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thơ Nguyễn Du, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút TẢI VỀ ở trên
Vỗ đất Quỳnh nhai hết nối thò.
Cười ngán Minh Phi ra cửa ải,
Đàn tỳ ly rượu chuốc Thiền Vu.
Cửa Ải Quỷ Môn
Dịch núi giăng giăng cao tựa mây,
Cửa chia Nam, Bắc chính là đây.
Tử sinh có tiếng nơi nguy thế,
Qua lại bao ngày chuyện xót thay!
Bụi rậm đầy đường hùm rắn núp,
Khói mây khắp chốn quỉ ma đầy.
Ngàn thu gió lạnh phơi sương trắng,
Công cán khen gì tướng Hán hay!
                Phạm Khắc Hoan Dịch
Cảm Hứng Trong Tù
Điệu Nam so phiếm đàn Chung Tử,
Tiếng Việt chàng Trang nói giữa đau.
Bốn biển phong trần sông núi khóc,
Mười tuần lao ngục tử sinh rầu.
Bình chương hận cũ bao giờ dứt,
Cô Trúc gương cao chẳng thể cầu.
Ta có tấc lòng không kẻ nói,
Dưới non hồng ấy Quế sông sâu.
Đầu Sông Chơi Dạo
Thả tóc ca tràn thỏa bước ta,
Rau tần gió đông ánh chiều tà.
Nước trôi, mây trắng cùng không hết,
Cò nổi, ông chài thẩy nhẩn nha.
Không lụy chưa đành trêu quỉ oán,
Bất tài thêm sợ chuyện quan nha.
Năm năm thu sắc đều như thế,
Chỉ kẻ xa làng chẳng nhận ra.
Dịch Thơ:
Xõa tóc ca tràn thỏa bước đi,
Bãi tần gió nổi bóng chiều hoe.
Nước trôi mây trắng cùng không hết,
Ngư phủ phù âu chẳng ngại nghi.
Không lụy chưa nên trêu quỉ trách,
Bất tài những sợ việc quan chê.
Năm năm thu sắc đều như thế,
Người ở làng xa chẳng biết gì.
Lưu Biệt Anh Nguyễn
Gió Tây động áo liễu cao rừng,
Chén biệt nghiêng đêm chuyện chẳng ngừng.
Đời loạn trẻ trai sầu gió kiếm,
Làng xa bè bạn lại rời chân.
Non cao nước chảy không người biết,
Góc biển chân mây khó chốn lùng.
Gửi lại sông nam trăng một mảnh,
Đêm đêm soi sáng tấm lòng chung.
Ngày Thu Gửi Hứng
Gió tây vừa đến người không về,
Vụt thấy mười phần lạnh lẽo ghê.
Nước cũ núi sông nhìn nắng xế,
Làng xa nhân thế gửi mây đi.
Chợt kinh cảnh lão hôm nay đến,
Đâu chốn hơi thu tối trước nghe.
Đầu bạc cười ta kém tháo vát,
Lá vàng sao sác ngập sân hè.
Dịch Thơ:
Gió tây vừa đến khách phong trần,
Rét buốt xem ra đã bội phần.
Nước cũ núi sông nhìn bóng xế,
Làng xa nhân thế gửi phù vân.
Tiếng thu đêm trước nơi nào nổi,
Cảnh lão hôm nay chợt ngại ngần.
Tự ngán bạc đầu vụng xoay xở,
Tơi bời lá úa rụng đầy sân.
Ngựa Bỏ Bên Thành
Nhà ai ngựa ốm bỏ bên đường,
Da sạm kông căn gầy thấu xương.
Lũy đá cỏ rầu thu lạnh lẽo,
Sa trường mây trận bóng chiều buông.
Đói lòng không chịu xin rau thóc,
Già đến còn mang nghĩa nước non.
Dầu dãi gió sương tròn khí tiết,
Đừng cho lần nữa mắc yên cương.
Ngày Xuân Chợt Hứng
Trời xấu lâu rồi mở cửa chi,
Lần lữa rét nực giục nhau đi.
Làng xa lại biệt người năm trước,
Quỳnh hải xuân sang tự xứ người.
Xuân ý còn vương mai nở lạnh,
Bãi nam thương ngắm cỏ xanh rì.
Miếu thôn quanh quẩn ông già xóm,
Cam rượu say sưa chửa thấy về.
Dịch Thơ:
Trời xấu từ lâu cửa vẫn gài,
Lữa lần nóng lạnh dục nhau hoài.
Làng xa người lại trăm năm biệt,
Quỳnh hải nơi nào xuân tới chơi.
Lòng ngán bãi Nam nhìn cỏ biếc,
Ý vui xuân được biết hoa mai.
Miếu thôn quanh quẩn ông già xóm,
Cam rượu say sưa mãi chẳng dời.
Xúc Cảm Đình Ven Sông
Nhớ thuở cha ta cáo lão về,
Mé sông rộn ngựa chật đường xe.
Rồng thần đưa nước thuyền tiên lướt,
Hạc quí ngang không lọng báu che.
Xiêm áo vắng tanh từ dạo ấy,
Cỏ hoa ngơ ngác mấy bờ đê.
Trăm năm bao việc thương âm thế,
Cả đến Tràng An cũng khác ghê.
Nói Hàn Tín Luyện Quân
Trăm vạn hùng binh sang bến Bắc,
Đất Yên gươm giáo vẫn chôn ngầm.
Hai ngàn năm trải dài bao việc,
Man mác thành bên bãi cát lầm.
Với Khoái chưa dành trò khúm núm,
Trước vua dám sánh chuyện cầm quân.
Đáng thương sông núi mười đời vững,
Bổng lộc riêng nhà Giáng Quán ăn.
Dịch Thơ:
Trăm vạn hùng binh bước vượt Hà,
Đất Yên dưới vẫn dấu can qua.
Dặc dài sau việc hai ngàn thuở,
Man mác bên thành bãi cát pha.
Với Khoái không dành so kém cỏi,
Cùng vua chả dấu chuyện tài ba.
Đáng thương sông núi mười đời mới,
Giáng, Quán giàu sang chỉ mấy nhà.
Tranh Biệt Cùng Giả Nghị
Không ai đi qua Hồ Nam,
Sao biết sông Tương sâu.
Không đọc phú Hoài Sa,
Lòng họ Khuất biết đâu.
Lòng Khuất Nguyên nước sông Tương,
Ngàn thu muôn ngàn trong thất đáy.
Xưa nay sao được người đồng tâm,
Bài phú Giả sinh không nghĩa lí.
Liệt nữ xưa nay không hai chồng,
Sao phải chín châu cố long đong.
Chưa chắc người xưa biết ta đó,
Trước mắt dòng Tương trôi mênh mông.
Người Hát Rong Phủ Vĩnh Bình
Cụ mù Thái Bình Mặc áo vải,
Con nhỏ dắt tay men bờ sông.
Rằng: cụ ăn mày ở ngoại thành,
Kiếm tiền độ thân đi hát rong.
Thuyền bên có người thích nghe hát,
Dắt tay đưa dẫn xuống khoan sạp.
Lúc này trong thuyền tối không đèn,
Bừa bãi cơm canh đầy đĩa bát.
Lần mò sờ soạng ngồi nép bên,
Miệng cám ơn, tay giơ mấy lượt.
Tay vơ dây miệng hát lời,
Vừa đàn vừa hát không chút ngơi.
Thanh âm khác lạ nghe không hiểu,
Nhưng thấy réo rắt rất êm tai.
Nhà thuyền viết chữ bảo ta biết,
"Khúc này Thế Dân với Kiến Thành".
Hơn chục người xem đều yên lặng,
Chỉ thấy gió sông hiu hiu trăng sông thanh.
Miệng phì bọt trắng tay mỏi rã,
Lại ngồi, ngừng đàn, nói hát xong.
Gần một trống canh đàn hát mệt ,
Tiền thưởng chỉ được dăm sáu đồng.
Con nhỏ lại dắt lên khỏi thuyền,
Còn quay đầu lại cảm ơn thêm.
Ta nhìn chua xót lại buồn đau,
Người đời thà chết không thích nghèo.
Cứ bảo Trung Hoa toàn no ấm,
Ai ngờ người kiểu này cũng nhiều.
Người không thấy lệ cung đốn cho sứ đoàn,
Thuyền này thuyền nọ đầy gạo thịt.
Đoàn người ăn chán còn vứt quăng,
Canh thừa cơm nguội chìm đáy nước.
Viếng Người Con Hát Thành La
Một cành tươi đẹp tựa bồng doanh,
Xuân sắc ngời lên động sáu thành.
Thiên hạ ai người thương bạc mệnh,
Trong mồ dành tự tiếc phù sinh.
Phấn son khi sống khôn trang nợ,
Trăng gió ngày sau mãi hão danh.
Có phải trần gian không kẻ biết,
Suối vàng tìm bạn Liễu Kì Khanh.
Ngồi Một Mình Trong Thủy Các Trên Sông La Phù
Bên dưới thủy các sông nước sâu,
Bên trên thủy các người rầu rầu.
Mênh mang sớm tối lần mấy đổi,
Cuồn cuộn xưa nay lớp sóng trào.
Trần thế trăm năm mơ mở mắt,
Hồng sơn ngàn dặm nhớ ngang lầu.
Bùi ngùi đối bóng mình không nói,
Tóc bạc lơi dài vạt áo nâu.
Dịch Thơ:
Bên dưới thủy các dòng thăm thẳm,
Bên trên thủy các người trầm ngâm.
Bóng mây mang mác thay hôm sớm,
Hoa sóng cuốn dần nỗi cổ kim.
Trần thế trăm năm mơ mở mắt,
Hồng sơn ngàn dặm dạ bâng khuâng.
Ngậm ngùi ngắm cảnh mình không nói,
Tóc trắng dài vương vạt áo thâm.
Mộ Đỗ Thiếu Lăng Ở Lôi Dương
Nghìn năm thuở văn chương đáng bậc thầy,
Một lòng mến phục mãi xưa nay.
Lỗi Dương thông trắc đâu tìm nhỉ,
Rồng cá sông thu nhớ bấy chầy.
Thời khác thương nhau suông đổ lệ,
Túng nghèo như thế! bởi thơ hay.
Lắc đầu chứng cũ còn hay hết,
Dưới đất đừng cho lũ quỷ rầy.
Qua Sông Hoài
Nhớ Thừa Tướng Văn
Núi sông phong cảnh vẫn y nguyên,
Thừa tướng cô trung vạn thuở truyền.
Một vượt sông Hoài đâu đất cũ,
Lại qua Giang tả hỏi còn phen.
Niềm đau thơ đọc gieo vàng đá,
Máu oán khi về hóa đỗ quyên.
Nam Bắc đến nay không tục lạ,
Bóng chiều man mác ngược xuôi thuyền.
Đêm Rằm Tháng Giêng
Ở Quỳnh Côi
Sân vắng đêm rằm trăng sáng soi,
Thuyền quyên vẫn vẹn vẻ xinh tươi.
Một vùng xuân hứng nhà ai đấy,
Muôn dặm châu Quỳnh tỏ khắp nơi.
Hồng Lĩnh không nhà anh chị vắng,
Bạc đầu nhiều hận lắm mây trôi.
Đường cùng ơn đấy xa tìm gặp,
Ba chục năm qua mấy biển trời.
Dịch Thơ:
Sân vắng rằm giêng trăng sáng đêm,
Xinh xinh không đổi vẻ thuyền quyên.
Một trời xuân hứng nhà ai thích,
Muôn dặm châu Quỳnh một lối in.
Hồng lĩnh không nhà anh chị vắng,
Bạc đầu nhiều hận tháng năm chuyền.
Đường cùng ơn đấy xa tìm gặp,
Góc biển chân trời ba chục niên.
Miếu Thờ Mã Phục Ba
Ở Giáp Thành
Sáu chục người ta sức mỏi mòn,
Riêng ông yên giáp nhảy bon bon.
Được lời vua chúa cười là thích,
Quên nỗi anh em thấy cũng buồn.
Những tưởng cột đồng lòe gái Việt,
Chẳng dè xe ngọc lụy tàn con.
Đài mây tên họ sao không để,
Cúng tế Phương Nam chết vẫn bòn.
Đứng Trên Cầu Hoàng Mai Buổi Chiều
Trên cầu Hoàng Mai nắng buổi chiều,
Dưới cầu Hoàng Mai nước về Đông.
Khí lớn nổi chìm khói biển rộng,
Ánh trời mờ tỏ giữa dòng hung.
Gối chài tơi ngắm đò trăng lẻ,
Sáo mục vang dài lối gió chung.
Đất rộng văn chương đâu chả có,
Can gì tâm sự rối bòng bong.
Đêm Đậu Thuyền
Cửa Sông Tam Giang
Tây Việt non chồng nước rẽ đôi,
Đối nhau hai núi đá chơi vơi.
Vượn kêu cành vút nhường không lối,
Chó sủa rừng trong biết có người.
Ngó khắp núi mây người tuổi tác,
Cùng thuyền Hồ Việt thảy thân vui.
Mười năm đã baÜng đường quê cũ,
Giấc mộng gia hương mấy độ rồi.
Dịch Thơ:
Tây Việt non chồng nhánh nước phân,
Đối nhau hai núi đá muôn tầng.
Rừng trong chó sủa hay người có,
Vượn hót cành cao tưởng lối ngăn.
Ngó khắp núi mây người tuổi tác,
Cùng thuyền Hồ Việt thảy vui thân.
Mười năm đã baÜng đường quê cũ,
Sao được quê hương mộng mấy lần
Ốm
Nhiều bệnh, nhiều buồn dạ vẩn vơ,
Mười tuần bến Quế ốm nằm co.
Thần đau vào ngõ chực bắt vía,
Chuột đói leo giường gặm sách ta.
Chưa cóvăn chương gây nghiệt chướng,
Chẳng cho cát bụi vẳng hư không.
Tam Lan bên sổ câu ngâm dứt,
Man mác tinh thần thoái mái ra.
Xuân lạnh, hè oi quấy mãi thân,
Năm Hồng nằm nghỉ tháng lần năm.
Gương trong sớm lạnh soi già yếu,
Cửa trúc đêm im nhức bắp chân.
Bệnh tật mười năm không kẻ hỏi,
Thuốc tiên chín luyện biết đâu tìm.
Cửa ngoài sao được vầng trăng tỏ,
Ánh sáng soi liền mọi tối tăm.
Xin Ăn
Trời xanh chống kiếm ngó ngang tàng,
Ba chục năm dòng cát bụi vương.
Chữ nghĩa giúp mình không chút ít,
Đâu ngờ đói rét để người thương.
Dịch Thơ:
Gươm dài khẳng khái ngó xanh trên,
Lận đận đường bùn ba chục niên.
Chữ nghĩa chửa từng giúp chi cả,
Ơn người đói rét đỡ nhiều phen.
Tự Thán
Sống chửa nên danh sức đã suy,
Bạc đầu phơ phất gió chiều đi.
Nết như chân hạc sao đành cắt,
Mệnh tựa lông hồng chẳng biết chi.
Trời đất phú cho hình tướng kém,
Xuân thu trả lại trắng tu mi.
Gió tây lộng cách bồng bay gấp,
Rồi nữa lênh đênh đâu chốn về?
Tấm thân sáu thước tuổi ba mươi,
Lầm lỡ thông minh hại tính trời.
Vốn chẳng văn chương căm oán mệnh,
Có chi trời đất ghét ghen người.
Sách gươm dang dở làm ăn khó,
Lần lữa xuân thu tóc bạc rồi.
Sao được cạo đầu về với núi,
Nằm nghe thông gió vọng mây trôi.

File đính kèm:

  • docThơ Nguyễn Du.doc
Bài giảng liên quan