Tổng hợp các bài Ca dao - Tục ngữ dân gian

Ca dao

THAN THÂN

Bốn bề công nợ eo sèo

Chỉ vì một nỗi tôi nghèo mà thôi

Tôi làm tôi chẳng có chơi

Nghèo đâu nghèo mãi, trời ơi hỡi trời!

Bồng bồng mẹ bế con sang

Đò to , nước lớn mẹ mang con về

Mang về đến gốc bồ đề

Xoay trở hết nghề mẹ bán con đi

 

doc15 trang | Chia sẻ: ngochuyen96 | Lượt xem: 1298 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tổng hợp các bài Ca dao - Tục ngữ dân gian, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút TẢI VỀ ở trên
ù dâu 
Có khi ăn mất cả trâu lẫn bò
Con trai tát nước, nàng dâu đi mò
Cha chài, mẹ lưới, con câu
Đói thì ăn ráy ăn khoai
Chớ thấy lúa trổ tháng hai mà mừng
Những người đi biển làm nghề 
Thấy dòng nước nóng thì về đừng đi
Sóng lừng, bụng biển ầm ì
Bão mưa ta tránh chớ hề ra khơi
Rủ nhau đi cấy đi cày
Bây khó nhọc có ngày phong lưu
Trên đồng cạn dưới đồng sâu
Chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa
Trâu ơi, ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta
Cấy vốn nghiệp nông gia 
Ta đây trâu đấy, ai mà quản công
Bao giờ cây lúa còn bông 
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn
Trên trời có ông sao Thần
Bốn mùa chỉ lối cho dân ăn làm
Sang xuân Thần cuối lom khom
Là mùa trồng đậu dân làng biết chăng ?
Bước sang tháng chin rõ trăng
Lưng Thần hơi đứng là đang gặt mùa
LỊCH SỬ VÀ ĐẤT NƯỚC
Ai lên Biên Thượng, Lam Sơn 
Nhớ Lê Thái Tổ chặn đường quân Minh
Ai về Bình Định mà nghe 
Nói về chàng Lía, hát vè Quảng Nam
Ai về Hậu Lộc, Phú Điền 
Nhớ đây Bà Triệu trận tiền xung phong
Ai về Hà Tĩnh thì về 
Mặc lụa chợ Hạ, uống nước chè Hương Sơn
Ai về đến huyện Đông Anh 
Ghé thăm phong cảnh Loa Thành Thục Vương 
Cổ Loa hình ốc khác thường 
Trải bao năm tháng nẻo đương còn đây
Ai về Phú Thọ cùng ta 
Vui ngày giỗ Tổ tháng ba mùng mười
Dù ai đi ngược về xuôi 
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba
Ai về Thọ Lão hát chèo 
Có thương lấy phận nàng Kiều thì thong
Bắc Cạn có suối đãi vàng 
Có hồ Ba Bể, có nàng áo xanh
Cầu Quan vui lắm ai ơi
Trên thì chợ họp, dưới bơi thuyền rồng
Chiều chiều én liện truông Mây
Cảm thong chú Lía bị vây trong thành
Dịu dàng nết đất An Dương 
Xưa nay là chốn văn chương nổi tài
Dù ai buồn đâu, bán đâu
Mồng mười tháng chín chọi trâu thì về
Gió đưa cành trúc la đà 
Tiếng chuông Trấn Võ, canh gà Thọ Cương 
Mịt mù khói tỏa ngàn sương 
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ
Khôn ngoan qua cửa sông La 
Dễ ai có cánh đi qua Luỹ Thầy
Lạy trời cho cả gió lên
Cho cờ vua Bình Định bay trên kinh thành
Mồng bảy hội Khám, mồng tám hội Dâu
Mồng chín đâu đâu trở về Hội Gióng
Đồng Đăng có phố Kì Lừa 
Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh 
Ai lên xứ Lạng cùng anh
Tiếc công bác mẹ sinh thành ra em 
Tay cầm bầu rượu nắm nem 
Mảng vui quên hết lời em dặn dò
Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh 
Nước Tháp Mười lấp lánh cá tôm
Đức Thọ gạo trắng nước trắng 
Ai về Đức Thọ thong dong con người
Đời vua Vĩnh Tộ lên ngôi
Cơm trắng đầy nồi, trẻ chẳng cho ăn
Ngó qua bên canh Tô Châu 
Thấy em gánh trên đầu giắt trâm
Nhất cao là núi Tản Viên 
Nhất sâu là vũng Thủy Tiên cửa Vừng
Nhà Bè nước chảy chia hai 
Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về
Nhong nhong ngựa ông lại về
Cắt cỏ bồ đề cho ngựa ông ăn
Sa Nam trên chợ dưới đò 
Nơi đây Hắc Đế kéo cờ dụng binh
Sông Lam một dải nông sờ 
Nhớ người quân tử bơ vơ nổi chìm
Sông Thao nước đục người đen
Ai lên phố Eûn cũng quên đường về
Vĩnh Long có cặp rồng vàng 
Nhất Bùi Hữu Nghĩa nhì Phan Tuấn Thần
Vườn ai trồng trúc trồng tre
Ở giữa trồng chè, hai bên đào ao
Aáy nhà một đấng anh hào 
Họ Phan, làng Thái, đồng bào kính yêu
Xứ Nam nhất chợ Bằng Vồi
Xứ Bắc: Vân Khánh, xứ Đoài: Hương Canh
Tục ngữ là những câu nói nhân gian ngắn gọn, ổn định, có nhịp điệu, hình ảnh, thể hiện những kinh nghiệm của nhân dân về mọi mặt (tự nhiên, lao động, sản xuất, xã hội) được nhân dân vận dụng vào đời sống, suy nghĩ và lời ăn tiếng nói hằng ngày. Đây là một thể loại văn học dân gian.
CÁC HIỆN TƯỢNG TỰ NHIÊN
Cần xuống muống lên
Cây chọn mất lá cá chọn mất cây
Cha chết không lo bằng đỏ lò tây bắc.
Chắc rễ bền cây
Chữ tốt xem tay,ngựa hay xem xoáy
Chớp đông nhay nháy ,gà gáy thì mưa
Chớp thừng chớp chão ,chẳng bão thì mưa.
Chuồng gà hướng đông,cái lông chẳng còn
Cóc nghiền răng đang nắng thì mưa
Đông chết se hè chết lụt
Được mùa nhãn hận nước lên
Eách kêu uôm uôm, ao chuôm đầy nước
Eùn bay thấp mưa ngập cầu ao;én bay cao mưa rào lại tạnh
Kiến dạo tổ trời mưa
Lá tre trôi lộc,mùa rét xộc đến
Mây thành vừa hanh vưà giá
Mây xanh thì nắng mây trắng thì mưa
Mặt trời có quầng thì hạn,mặt trăng có tán thì mưa
Mống cao gió táp mống áp mưa rào
Mống dài trời lụt mông cụt trời mưa
Một ngôi sao một ao nước 
Mỡ gà thời gió mỡ chó thời mưa
Nắng chóng trưa mưa chóng tối
Nắng tháng ba chó già lè lưỡi
Nước chảy đá mòn
Qua giêng hết năm qua rằm hết tháng
Ráng vàng thời nắng ,ráng nắg thời mưa
Sấm kêu,rêu mọc
Thâm đông trống bác hễ nực thì mưa
Thâm đông, hồng tây,dựng mây,ai ơi ở lại ba ngày hãy đi
Tháng bảy nước chảy qua bờ
Tháng chín mưa rơi tháng mười mưa cữ
Tháng hè đóng bè làm phúc
Tháng mười động gia tháng ba động rạm
Tháng mườico sấm ,cấy trên nấm cũng được ăn
Tháng tám gió mây tưới đồng
Tháng bảy như gảy cần trám,tháng tám nắng ram ù trái bưởi
Trống tháng bảy chẳn hội thì chay ,tháng sáu heo may chẳng mưa thì bão
Trời đương nắng cỏ gà trắng thì mưa
Vàng mây thời gió,đỏ mây thời mưa
KINH NGHIÊM LAO ĐỘNG
Ao sâu tốt cá
Bắt lợn tóm giò bắt bò tóm mũi
Buộc trâu đâu nát rào nấy
Cây chọn mất lá ,cá chọn mất vảy
Cấy thưa hơn bừa kĩ
Cao bờ thì tát gầu dai ; gầu sòng chỉ tát được nơi thấp bờ
Chữ tốt xem tay ,ngựa hay xem khoáy
Chuồng gà hướng đông , cái lông chẳng còn
Con trâu la øsự nghiệp 
Dao thử trầu héo ,kéo thử lúa xô
Dao thử trầu héo kéo thử lụa xô
Được mùa nhãn ,hạn nước lên
Gió heo mây mía bay lên ngọn
Hòn dất nỏ bằng giỏ phân
Làm ruộng ba năm không bằng chăn tằm một lứa
Làm ruộng không trâu làm giàu không thóc
Làm ruộng tháng năm coi chăm tháng mười
Lo trẻ mùa hè không bằng lo bò què tháng sáu
Lúa chín hoa ngâu đi đâu chẳng gặt
Lúa mùa thì cấy cho sâu,lúa chiêm thì gảy cành dâu mới vừa
Lúa tháng bảy vợ chồng rẫy nhau
Một lươt cỏ thêm giỏ thóc
Muốn ăn lúa tháng năm trông trăng ràm tháng tám
Muốn giàu nuôi trâu cái muốn lun bại nuôi bồ câu
Nắng sớm thì đi trồng cà , mưa sớm ở nhà phơi thóc
Nắng tốt dưa ,mưa tốt lúa 
Nước cả,cá to
Ruộng không phân như thân không cổ
Sao rua đứng trốc , lúalốc được ăn
Tằm đỏ cổ thì vỗ dâu vào
Tháng chin ăn rươi ,tháng mười ăn ruốc
Tháng giêng trồng củ từ ,tháng tư trồng củ lạ 
Tháng giêng trồng trúc , tháng lục trồng tiêu
Tháng tám mạgià ,tháng ba mạ thóc
Tháng tám mưa trai , tháng hai mưa thóc
Tháng tám tre non làm nhà , tháng năm tre già làm lúa 
Thiếu tháng tư khó nuôi tằm ,thiếu tháng năm khó làm ruộng
Tre già là bà gỗ lim
Trồng khoai đất lạ ,gieo mạ đất quen
CON NGƯỜI & ĐỜI SỐNG
Aên cá nhả xương ,ăn đường nuốt chậm
Aên cơm lừa thóc , ăn cóc bỏ gan
Aên có chỗ, đỗ có nơi
Aên hết nhiều , ở hết bao nhiêu
Aên lấy chắc , mặc lấy bền
Aên sau là đầu cất dọn
Aên vóc ,học hay
Cau già khéo bổ thì non , nạ dòng trang điềm lai còn như xưa
Cho ùtreo, mèo đậy 
Chọn bạn mà chơi , chọn nơi mà ở
Cơm chín tới , cải ngồng non , gái một con , gà gại ổ
Cơm và cháo húp
Có an cư mới lạc nghiệp
Có cà là nhà có phúc
Có thực mới vực được đạo
Của đời ông , ăn không cũng hết
Đất lành chim đậu
Đi hỏi già về nhà hỏi trẻ
Đưa đũa ghét năm , đưa tăm ghét đời
Kén cá chọn canh
Làm cố được , ăn không cố được
Lúa tốt xem biên
Miệng ăn núi lở
Một bát cơm rang bằng sàng cơm thổi
Một con so lo bằng mười con dạ
Một người nhà bằng ba người mượn
Mua cá thì phải xem mang ,người khôn xem lấy hai hàng tóc mai
Nghĩa tử là nghĩa tận 
Người đi không bực bằng người chực mâm cơm
Nhất ngon là đầu cá gáy ,nhất thơm là cháy cơm nếp
Nhà gỗ xoan , quan ông nghè
No cơm ấm cật giậm giật mọi nơi
No dạ đã thèm
Sinh dữ, tử lành
Sống thì chả cho ăn , chết thì làm văn tế ruồi
Tay làm hàm nhai , tay quai miệng trễ
Thực túc binh cường
Trẻ muối cà , già muối dưa
Trời đánh còn tránh miếng ăn
Vợ hiền hòa , nhà hướng nam
GIA ĐÌNH
Anh em trong nhà đóng cửa dạy nhau
Anh ngủ em thức anh chực em nằm
Anh thuận em hòa là nhà có phúc
Bà con vì tổ vì tiên , không phải vì tiền vì gạo
Cây có cội , nước có nguồn
Cắt dây bầu dây bí , ai nở cắt dây chị dây em
Cá chuối đắm đuối vì con
Cha anh hùng con hảo hán
Cha mẹ giàu con có , cha mẹ khó con không
Cha mẹ sinh con trời sinh tính
Cha sinh mẹ dưỡng
Chim có tổ , người có tông 
Chị ngã em nâng
Công cha nghĩa mẹ
Con chẳng chê cha mẹ khó , chó chẳng chê chủ nghèo
Con có cha mẹ đẻ , không ai ở chô nẻ mà lên
Con có cha như nhà có nóc
Con dại cái mang
Con hư tại mẹ , cháu hư tại bà
Con hơn cha là nhà có phúc
Có chuối non mới biết lòng cha mẹ
Dì ruột thương cháu như con rủi mà không mẹ cháu còn cậy trông
Đời cha ăn mặn , đời con khát nước
Hùm dữ chẳng nở ăn thịt con
Mài mực ru con , mài son đánh giặc
Máu chảy ruột mềm
Một giọt máu đào hơn ao nước lã
Nhất con , nhì cháu , thứ sáu người dưng
Nhất mẹ , nhì cha , thứ ba bà ngoại
Nhất mẹ nhì con
***

File đính kèm:

  • docCadao - Tucngu.doc
Bài giảng liên quan