Về Hà Nội nhớ Bà Huyện Thanh Quan
THĂNG LONG HOÀI CỔ
Tạo hóa gây chi cuộc hý trường
Đến nay thấm thoát mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh ấy người đây luống đoạn trường
Đây là một bài thơ tề chỉnh hết sức tề chỉnh. Lại là một bài thơ hay .
Bài thơ hay vị tất đã là một bài thơ tề chỉnh . Ngày xưa các vị đại khoa thi xong, vua thường ban yến đãi tiệc . Các vị đỗ cao thường làm một bài thơ để lưu niệm. Như của các vị Trạng Nguyên, Bảng Nhãn hay Thám Hoa nhất định là phải đúng niêm luật nhưng chưa chắc là những bài thơ hay. Chứng cớ là cho đến ngày nay , loại thơ ấy còn mấy bài được truyền tụng. Trái lại những bài thơ hay nhất của Trung Hoa và Việt Nam chưa chắc là những bài thơ tề chỉnh, lại đôi khi còn không đúng niêm, đúng luật. Niêm luật giúp chúng ta làm thơ tề chỉnh, nhưng niêm luật chưa phải là thơ. Những cây bút "đại gia" thường vượt lên trên niêm luật. Bời thế mới có Bùi Giáng, và thơ Bùi Giáng mới được truyền tụng, tuy thơ của Búi Giáng phần lớn là thơ của người điên. Vừa đây Nguyễn Văn Lục trong báo Tân Văn số ra mắt có viết một bài về Búi Giáng mà theo tôi thật giá trị. Đó là một con người cam đảm , dám tin ở những điều mà mình cho là thật. Ngày xưa có một giai thoại, nhà văn Nghiêm Xuân Hồng là bộ trưởng chiêu hồi, Thanh Tâm tuyền là trung úy. Trong một tiệc rượu ông Nghiêm Xuân Hồng nửa đùa nửa thật hỏi Thanh Tâm Tuyền :
Về Hà Nội nhớ Bà Huyện Thanh Quan * (Đọc Thăng Long Hoài Cổ của Bà HTQ) Huệ Thu THĂNG LONG HOÀI CỔ Tạo hóa gây chi cuộc hý trường Đến nay thấm thoát mấy tinh sương Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo Nền cũ lâu đài bóng tịch dương Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt Nước còn cau mặt với tang thương Ngàn năm gương cũ soi kim cổ Cảnh ấy người đây luống đoạn trường Đây là một bài thơ tề chỉnh hết sức tề chỉnh. Lại là một bài thơ hay . Bài thơ hay vị tất đã là một bài thơ tề chỉnh . Ngày xưa các vị đại khoa thi xong, vua thường ban yến đãi tiệc . Các vị đỗ cao thường làm một bài thơ để lưu niệm. Như của các vị Trạng Nguyên, Bảng Nhãn hay Thám Hoa nhất định là phải đúng niêm luật nhưng chưa chắc là những bài thơ hay. Chứng cớ là cho đến ngày nay , loại thơ ấy còn mấy bài được truyền tụng. Trái lại những bài thơ hay nhất của Trung Hoa và Việt Nam chưa chắc là những bài thơ tề chỉnh, lại đôi khi còn không đúng niêm, đúng luật. Niêm luật giúp chúng ta làm thơ tề chỉnh, nhưng niêm luật chưa phải là thơ. Những cây bút "đại gia" thường vượt lên trên niêm luật. Bời thế mới có Bùi Giáng, và thơ Bùi Giáng mới được truyền tụng, tuy thơ của Búi Giáng phần lớn là thơ của người điên. Vừa đây Nguyễn Văn Lục trong báo Tân Văn số ra mắt có viết một bài về Búi Giáng mà theo tôi thật giá trị. Đó là một con người cam đảm , dám tin ở những điều mà mình cho là thật. Ngày xưa có một giai thoại, nhà văn Nghiêm Xuân Hồng là bộ trưởng chiêu hồi, Thanh Tâm tuyền là trung úy. Trong một tiệc rượu ông Nghiêm Xuân Hồng nửa đùa nửa thật hỏi Thanh Tâm Tuyền : Sao anh không về chơi thôn Vỹ Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mát quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền Mặt chữ điền thì vuông vắn như cái bánh chưng, đẹp gì mà đẹp . Thanh Tâm Tuyền nói ông hiểu thơ như vây thì thật là giết người ta chứ còn gì nữa ! Hồng cười nói , thì ít ra anh cũng phải cắt nghĩa cho chúng tôi hiểu chứ ! Bấy giờ có một nhà thơ can rằng: anh Hồng chắc là hỏi đùa mà chơi vậy thôi . Thật ra thì đối với người Việt Nam thì cái gì vuông vức tròn trịa đều đẹp vì nó phúc hậu . Đây tác giả chỉ muốn nói thế thôi . Ngôn ngữ của thơ, không phải là ngôn ngữ của toán học . Ai về ai có nhớ ai ; Ai cũng là tôi mà cũng là người tôi yêu. Toán thì không thế , hai với hai nhất định phải là bốn, nhất định, rõ ràng và minh bạch như vậy . Bài Hoàng Hạc Lâu được kể như bài thơ hay nhất của Trung Hoa, bài thơ ấy phá hết niêm luật : Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ Mới câu đầu đã thất luật, Thử địa không du hoàng hạc lâu Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản Bạch vân thiên tải không du du Hai câu 3 và 4 không đối Tình quyên lịch lịch hán dương thụ Phương thảo thê thê anh vũ châu Nhật mộ hương quan hà xứ thị Yên ba nhân thượng xử nhân sầu Không có một chữ nào một câu nào cầu kỳ, giản dị như lời nói, hay ở chỗ nào ? Thật khó mà trả lời ! Thơ để mà cảm chứ không để phân tích. Người ta cảm được cái hay của thơ, cái hồn của thơ; như người ta đã cảm được lời nhạc của Văn Cao, của Trịnh Công Sơn . Nhiều lời của Trịnh Công Sơn nếu phân tích thì thật là tối nghĩa - gọi em cho nắng chết trên sông dài...- bảo cắt nghĩa thì không cắt nghĩa được , bảo cảm thì cảm được . Nguyễn Tất Nhiên có hai câu thơ mà tôi nghĩ Phạm Duy phải là tay thượng thặng mới nhìn ra : Ngồi trong lớp học đắp đôi tay ngà, hoặc: tưởng là hoa hậu, nhưng mà tiểu thơ ! Hai câu thơ ấy có thể là của một người điên, người điên thi sĩ . Những bài tiếng Thu, Đôi Mắt Người Sơn Tây, Tống Biệt Hành... những bài thơ hay chưa tề chỉnh . Vậy tề chỉnh chưa phải là điều kiện cần và đủ cho một bài thơ hay . Trở về bài Thăng Long Thành Hoài Cổ : Tạo hóa gây chi cuộc hý trường Chúng ta cũng đã trải qua một cuộc hý trường : 30 tháng 4 1975, nên chúng ta cũng có chung nỗi ngậm ngùi với tác giả. Đến hai câu thực thì : Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo Nền cũ lâu đài bóng tịch dương Ngày xưa, xe ngựa của các bậc vương tôn đông đúc là thế . Bây giờ chỉ còn trơ lại những cỏ khô mùa Thu. Đường cũ thì lâu đài vào lúc chạng vạng đã thê lương càng thêm thê lương Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt Nước còn cau mặt với tang thương Đối từng câu từng chữ, mà không có vẻ gì là đối cả . Thần tình là ở chỗ ấy, đối mà không đối ! Đi qua Hà Nội nhớ đến người xưa, cảnh cũ lòng bất giác ngậm ngùi . Cho nên bài thơ, tình thật thiết tha, ý thật sâu đậm , nó hay vì thật. Lời thơ trang nhã, ngôn ngữ của Bà Huyện Thanh Quan là ngôn ngữ của thi ca trưởng giả, rất thanh tao đài các . Những chữ trơ gan , chau mặt là những chữ thật thần, không phải muốn có là có được . Đọc thơ Đường, thú là thế . Ít câu, ít chữ mà ý tứ thật ngậm nguì man mác... Ngàn năm gương cũ soi kim cổ Cảnh ấy người đây luống đoạn trường. Bài Họa LẠNH SA TRƯỜNG bài 1 Nghĩ xưa đêm xuống lạnh sa trường Đâu lạnh riêng vì gió với sương Đất mới buồn chung trời tỵ nạn Lầu cao bóng lẻ buổi tà dương Chẳng say đắm mấy sao tha thiết Thêm nhớ nhung mà lại tiếc thương Tôi chẳng giống như bà Huyện trước Đèn thao thức mãi suốt canh trường bài 2 GIỮA CHIẾN TRƯỜNG Ai đã vùi thân giữa chiến trường Bao lần trăng giải mịt mù sương Cúi đầu ngó xuống tàn canh vắng Ngửa mặt nhìn lên lạ bóng dương Sóng chẳng giận ai mà phẫn nộ Thơ không sao cả cũng bi thương Cùng ai Thiên Cổ cùng tâm sự Gửi lại ngàn sau nỗi đoạn trường Huệ Thu * Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh. Bà sinh trưởng vào cuối triều Lê, đầu nhà Nguyễn. Bà là con của vị danh nho Nguyễn Lý (1755-1837) vốn là một cựu thần nhà Lê.
File đính kèm:
- Ve Ha Noi nho Ba Huyen Thanh Quan.doc