Về tài nguyên và xu thế diễn biến khí hậu ở các vùng lãnh thổ Việt Nam
Người ta thường so sánh: nếu biển nói chung luôn được ví như một cỗ máy điều
hoà nhiệt độ khổng lồ, thì Biển Đông cũng góp phần làm cho mùa đông nước ta ấm và
ẩm hơn, mùa hè mát và đỡ oi bức hơn; nếu dãy Hoàng Liên Sơn luôn tạo cho khu vực
phía đông Bắc Bộ thời tiết rét ẩm, mưa phùn và ngược lại tạo cho khu vực Tây Bắc
thời tiết khô hanh vào mùa đông một cách dị thường, thì Trường Sơn lại mang đến cho
dải ven biển Trung Bộ (đặc biệt là Bắc Trung Bộ) thời tiết oi bức nhất trong toàn quốc
bởi gió tây khô nóng vào mùa hè; nếu các vùng Bắc Quang, Trà My được gọi là những
"rốn mưa" với lượng mưa nhiều năm đạt tới 5000-6000mm thì cũng có vùng nhiều
nắng và khô nhất Việt Nam với lượng mưa năm chỉ đạt khoảng 700-800mm
ồng bằng sông Cửu Long bên cạnh những điều kiện có lợi, còn có những bất lợi cần quan tâm khắc phục: - Trong chế độ mưa - ẩm ở Đồng bằng sông Cửu Long có sự phân hoá mùa khá sâu sắc, gây ra những khó khăn nhất định cho công tác quy hoạch và phát triển sản xuất, ví dụ: thời kỳ mùa khô (tháng XII đến tháng IV) gây khó khăn không nhỏ cho nghề trồng trọt, nhất là độ chua mặn lấn sâu vào nội địa, hạn chế khả năng trồng cây và tăng vụ, ngược lại thời kỳ mùa mưa ở đây thường bị nước ở thượng nguồn sông Mê Kông dồn về gây ra nạn ngập úng nghiêm trọng trên phạm vi lớn. Đó là những khó khăn lớn nhất đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở vùng này. Một trong các giải pháp Tuyển tập báo cáo Hội thảo khoa học lần thứ 10 - Viện KH KTTV & MT 24 khắc phục khó khăn đó hiện nay là "sống chung với lũ"- là bài toán kinh tế - xã hội lớn đang đặt ra cho các ngành, các cấp ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long; - Bão và ATNĐ ở Đồng bằng sông Cửu Long xảy ra (thường vào mùa thu) với xác suất rất nhỏ, có nghĩa ảnh hưởng của Bão và ATNĐ ở vùng này không nhiều. Tuy vậy, ảnh hưởng của Bão đã có xẩy ra và gây thiệt hại không nhỏ đến người và của cải vật chất ở đây. Nguyên nhân chính là do điều kiện kinh tế và dân trí của cư dân và do công tác phòng chống thiệt hại do bão của các cấp chính quyền chưa được nhận thức đúng mức; - Các hiện tượng thời tiết bất lợi cho hệ sinh thái nói riêng và cho sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung ở Đồng bằng sông Cửu Long, như đã đề cập ở trên, thường không hoặc ít xuất hiện. Tuy thế, hiện tượng dông sét ở vùng sâu trong đất liền đi đôi với tố, lốc,...gây ra gió xoáy, gió giật với sức tàn phá lớn ở vùng này cũng cần có giải pháp phòng chống phù hợp để đảm bảo sự sinh sống của nhân dân địa phương. Kiên cố hoá nhà cửa, công trình,...đi đôi với giải pháp "sống chung với lũ", theo chúng tôi có lẽ là cách làm hợp thực tế nhất hiện nay và có thể còn có ý nghĩa kinh tế - xã hội lâu dài ở vùng này. 3. Nhận xét về xu thế diễn biến nhiệt độ và lượng mưa: Nhìn chung trong mùa đông nhiệt độ không khí ở các vùng đều biến động mạnh và biến động mạnh hơn trong mùa hè, nhất là ở các vùng Bắc Bộ và Trung Bộ. Điều đó thể hiện sự ảnh hưởng của các trung tâm tác động thông qua cơ chế hoàn lưu mùa đông là rất đáng kể và phức tạp (sự luân phiên tác động của gió mùa cực đới và tín phong). Nhiệt độ trung bình năm ở các vùng được trung hoà bởi nhiệt độ 12 tháng trong năm, do vậy sự dao động của chuỗi số liệu này luôn đạt mức thấp và khá ổn định. Xu thế diễn biến của nhiệt độ không khí trong mùa đông ở các vùng thể hiện rõ nét hơn trong mùa hè, cụ thể: nhiệt độ không khí trong mùa đông tăng mạnh hơn trong mùa hè. Mức độ tăng của nhiệt độ trong mùa đông và mùa hè đã được đánh giá cụ thể cho từng vùng, trong đó đã được nêu rõ mức độ tăng lên của nhiệt độ không khí mùa hè không cao, thậm chí ở nhiều nơi không thể hiện xu thế tăng lên. Sự chênh lệch về mức độ tăng lên của nhiệt độ mùa đông và mùa hè dẫn đến xu thế tăng lên ở mức độ cao hơn của nhiệt độ trung bình năm so với nhiệt độ mùa hè. Mặc dầu mức độ tăng không cao, nhưng nhìn chung nhiệt độ trung bình năm ở nước ta có xu thế tăng lên do có sự ấm dần lên đáng kể của nhiệt độ không khí mùa đông. Có thể chốt lại, rằng mùa đông ở nước ta đang ấm lên đáng kể, và nhìn chung nhiệt độ không khí ở Việt Nam có xu thế tăng lên, phù hợp xu thế chung của toàn cầu và khu vực. Mưa luôn là yếu tố khí hậu biến động mạnh, không riêng gì ở vùng nào và ở nước nào. Hệ số biến động của lượng mưa các tháng cũng đủ nói lên điều đó, tuy mức độ biến động không đồng đều giữa các vùng. Bằng cách biểu diễn đồ thị diễn biến lượng mưa các tháng giữa các mùa người đọc có thể nhận thấy dễ dàng sự biến động rất mạnh trong các tháng có nhiều ảnh hưởng của nhiễu động nhiệt đới, rõ rệt nhất là ở dải ven biển Trung Bộ. Lượng mưa năm ở các vùng Bắc-Trung-Nam đều có biến động khá cao. Tuyển tập báo cáo Hội thảo khoa học lần thứ 10 - Viện KH KTTV & MT 25 Xu thế diễn biến của lượng mưa năm ở các vùng không có bức tranh chung như đối với nhiệt độ, mà có sự khác nhau nhất định liên quan với chế độ hoàn lưu, với ảnh hưởng của ENSO và điều kiện địa lý - địa hình của từng vùng,... Tuy vậy, qua phân tích xu thế tuyến tính lượng mưa năm của các vùng ở 2 miền khí hậu, đề tài nhận thấy: Lượng mưa năm ở miền khí hậu Bắc Việt Nam nhìn chung có khuynh hướng giảm xuống, chỉ một vài nơi không có xu thế tăng giảm rõ ràng (Tây Bắc, Bắc Quang, Hà Nội). Đồ thị biểu diễn lượng mưa năm cũng cho thấy: từ vùng Đông Bắc, Đồng bằng và trung du Bắc Bộ - Thanh Hoá đến phần phía bắc của Bắc Trung Bộ (Nghệ An) lượng mưa năm của khoảng 5 năm trở lại đây (trước năm 2000) bị hụt đáng kể so với trung bình nhiều năm. Tình hình hụt lượng mưa năm thời đoạn này là nguyên nhân dẫn đến khuynh hướng giảm xuống của toàn chuỗi số liệu mưa. Ở miền khí hậu Nam Việt Nam lượng mưa năm có xu thế chung tăng lên, nhất là ở vùng khí hậu Nam Trung Bộ. Tuy thế, đồ thị biểu diễn số liệu gốc lại cho thấy: lượng mưa năm thời kỳ trước năm 1990 ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ không có xu thế tăng lên, thậm chí còn có khuynh hướng giảm xuống. Trong thời kỳ 5 - 10 năm gần đây (trước năm 2000) lượng mưa năm ở đây có xu thế tăng lên đáng kể (ngược với khuynh hướng ở các vùng phía bắc nêu trên), và do đó "kéo theo" sự tăng lên của lượng mưa cả thời kỳ quan trắc. Điều đó cho thấy việc đánh giá xu thế diễn biến lượng mưa nói chung và lượng mưa năm nói riêng cho từng thời đoạn nhất định sát hợp hơn là đánh giá chung cho cả thời kỳ dài. Kết luận Sau đây chúng tôi xin nêu một số kết luận liên quan chủ đề của báo cáo này: 1- Tài nguyên khí hậu đã được đề tài "Kiểm kê, đánh giá tài nguyên khí hậu Việt Nam"đánh giá và trình bày theo từng vùng khí hậu. Điều kiện địa hình luôn chi phối trở lại chế độ khí hậu, cho nên vùng khí hậu Đồng bằng và trung du Bắc Bộ - Thanh Hoá và vùng khí hậu Đồng bằng Nam Bộ đã được chia thành 2 phần để đánh giá sát hợp hơn. Các đặc trưng thống kê của các yếu tố khí hậu giữa 2 vùng lãnh thổ trong một vùng khí hậu nêu trên tuy không chênh lệch lớn, nhưng là đáng kể. Việc phân chia lãnh thổ theo điều kiện địa hình (trung du và đồng bằng) để đánh giá tài nguyên và biến đổi khí hậu như thế là tương đối hợp lý (tránh được những đánh giá sai lệch lớn giữa vùng thấp và vùng cao thông qua giá trị trung bình và cực trị của cả vùng), và cũng phù hợp với cách đánh giá điều kiện khí hậu theo vành đai độ cao địa hình của nhiều tác giả trong và ngoài nước. 2- Việc khai thác tài nguyên khí hậu theo từng mục tiêu ứng dụng cụ thể (năng lượng bức xạ, năng lượng gió, thuỷ năng, sinh thái, du lịch, sức khoẻ cộng đồng,...) như thế nào phụ thuộc vào tiềm năng thực tế của từng yếu tố khí hậu, điều kiện tự nhiên và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương, khu vực; việc phòng chống thiên tai, và tiếp tục đầu tư nghiên cứu để nâng cao hiệu quả phòng chống thiên tai (bão, ngập lụt, lũ quét, hạn hán và các hiện tượng thời tiết có hại khác) cũng tuỳ thuộc điều kiện thực tế ở từng vùng như đã phân tích, đánh giá. 3- Ngoài diễn biến trong năm được đánh giá bằng biến trình năm (chu kỳ 12 tháng) và phương trình xu thế đã được trình bày cụ thể ở [3], đề tài chủ ý biểu diễn các đường xu thế tuyến tính kết hợp các đường giá trị ban đầu, nhằm trực quan hoá sự biến Tuyển tập báo cáo Hội thảo khoa học lần thứ 10 - Viện KH KTTV & MT 26 động và xu thế tăng - giảm của nhiệt độ và lượng mưa. Bằng cách trình bày đồ thị trực quan người đọc có thể nhận xét và so sánh một cách tương đối xu thế biến đổi của nhiệt độ và lượng mưa ở các vùng lãnh thổ: - Nhìn chung trong mùa đông nhiệt độ không khí ở các vùng đều biến động mạnh và biến động mạnh hơn trong mùa hè, nhất là ở các vùng Bắc Bộ và Trung Bộ. Điều đó thể hiện sự ảnh hưởng của các trung tâm tác động thông qua sự luân phiên tác động của gió mùa cực đới và tín phong; - Mặc dầu mức độ tăng không cao, nhưng nhìn chung nhiệt độ trung bình năm ở nước ta có xu thế tăng lên do có sự ấm dần lên đáng kể của nhiệt độ không khí mùa đông. Có thể nhận định, rằng mùa đông ở nước ta đang ấm lên đáng kể, và nhìn chung nhiệt độ không khí ở Việt Nam có xu thế tăng lên, phù hợp xu thế chung của toàn cầu và khu vực; - Mưa luôn là yếu tố khí hậu biến động mạnh, nhất là trong các tháng có nhiều ảnh hưởng của nhiễu động nhiệt đới (hội tụ nhiệt đới, bão,...) và rõ rệt nhất là ở dải ven biển Trung Bộ. Nhìn chung lượng mưa năm ở các vùng Bắc-Trung-Nam đều có sự biến động khá cao; - Xu thế diễn biến của lượng mưa năm ở các vùng không có bức tranh chung như đối với nhiệt độ, mà có sự khác nhau nhất định liên quan với chế độ hoàn lưu, với ảnh hưởng của ENSO và điều kiện địa lý-địa hình của từng vùng,...Nhìn chung lượng mưa năm ở miền khí hậu Bắc Việt Nam có khuynh hướng giảm xuống, chỉ một vài nơi không có xu thế tăng giảm rõ ràng (Tây Bắc, Bắc Quang, Hà Nội); ở miền khí hậu Nam Việt Nam lượng mưa năm có xu thế chung tăng lên, nhất là ở vùng khí hậu Nam Trung Bộ trong thời kỳ 5 - 10 năm gần đây (trước năm 2000). Có thể thấy: việc đánh giá xu thế diễn biến lượng mưa nói chung và lượng mưa năm nói riêng cho từng thời đoạn nhất định sát hợp hơn là đánh giá chung cho cả thời kỳ dài. Tài liệu tham khảo 1. Nguyễn Duy Chinh: Dao động và biến đổi khí hậu ở Việt Nam - Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học cấp Tổng cục - Hà Nội 1995 2. Nguyễn Duy Chinh và nnk: " Kiểm kê, đánh giá tài nguyên khí hậu Việt Nam" - Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ - Hà Nội 2006 3. Nguyễn Đức Ngữ và Nguyễn Trọng Hiệu: "Khí hậu và tài nguyên khí hậu Việt Nam" - Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội 2004 4. Nguyễn Hữu Tài: "Phân vùng khí hậu lãnh thổ Việt Nam" - Tài liệu đánh máy chuẩn bị xuất bản (1991) 5. Phạm Ngọc Toàn, Phan Tất Đắc: "Khí hậu Việt Nam" - Hà Nội 1993. Tuyển tập báo cáo Hội thảo khoa học lần thứ 10 - Viện KH KTTV & MT 27
File đính kèm:
- Tainguyen_xuthe_khihau_VN.pdf