Bài giảng Đường Thi nhất bách thủ
Bắt đầu bằng câu thơ bí ẩn của Lí Bạch : 诗成草树皆千古 Shī chéng cǎo shù jiē qiān gǔ:
“Thi thành, thảo thụ giai thiên cổ ” [ Bài thơ làm xong, cỏ cây (và bài thơ) đều đã trở thành thiên cổ ]
Lí Bạch đã nêu lên một quan niệm thơ độc đáo trong thế giới văn học của loài người ! Hiểu cách
thứ nhất là : Bài thơ đồng nhất với nhà thơ, cùng với cây cỏ thoắt trở thành quá khứ (thiên cổ) sau khi
bài thơ hoàn thành. Hiểu cách thứ hai : bài thơ và cây cỏ phút chốc trở nên nghìn năm, nghìn xưa
(thiên cổ). “Cỏ cây” là hình ảnh đại diện của thiên nhiên hoang sơ. Bài thơ, nhà thơ cùng với cỏ cây trở
thành một thứ “thiên nhiên” ư ? Mơ hồ nhất là ý nghĩa chữ “thiên cổ” . Câu thơ Lý Bạch hàm súc bí ẩn
lạ, hiểu lẽ nào cho đúng ? Tiếc rằng soạn giả chưa tìm thấy nguyên vẹn bài thơ có câu thơ trên.
Đọc một bài thơ hay, ta thấy cuộc sống trở nên thư thả, đôi mắt nhìn đời của ta sẽ khác. Thơ
không thích hợp với “công nghiệp hoá hiện đại hoá” . Trộm nghĩ, thơ sẽ mãi mãi thủ công hoá và cổ
điển hoá. Một cây bút, một mảnh giấy thêm vào một tâm hồn là đủ cho thơ . Đọc thơ rồi trò chuyện với
nhau cũng thấy tâm đắc thú vị ở đời !
Giá trị bài thơ là ở những chỗ ấy chăng, ? Nếu ta đi tìm những điều hấp dẫn lạ lùng ở Đường Thi cổ điển thì rất khó thấy . 3. Lập thu 立秋 Lì qiu Lưu Hàn 刘 翰 Liu Hán 乳鸦啼散玉屏空 一枕新凉一扇风 睡起秋声无觅处 满阶梧叶月明中 Rǔ yā tí sàn yù píng kōng Yī zhèn xīn liāng yī shàn fēng Shuì qǐ qiū fshēng wū mì chù Mǎn jiē wú yè yuè míng zhōng Vào thu Quạ con kêu khắp khoảng trời trong như ngọc Một cơn mát trên gối, một đợt gió trời quạt Ngủ dậy tiếng thu không biết từ đâu tới Đầy thềm lá ngô đồng dưới ánh trăng Nhũ nha đề tán ngọc bình không Nhất trẩm tân lương nhất phiến phong Thụy khởi thu thanh vô mịch xứ Mãn giai ngô diệp nguyệt minh trung P.H.N 2004 126 Dịch thơ Lời bàn : Mùa thu lâng lâng từ tốn đến với thi nhân . Nhà thơ rất mẫn cảm khi người đón nhận từng phần nhỏ mùa thu khe khẽ đến với mình . Nếu chẳng phải người yêu thiên nhiên sâu đậm và một tấm lòng ung dung thanh thản việc đời thì không thể cảm nhận được như thế. 4. Ngẫu thành 偶成 Ǒu chéng Trình Hiệu (Trình Hạo) 程 颢 Chéng Hào 闲来无事不从容 睡觉东窗日已红 万物静观皆自得 四时佳兴与人同 道通天地有形外 思入风云变态中 富贵不淫贫贱乐 Xián lái wū shì bù cóng rōng Shuì juè dōng chuāng rì yǐ hóng Wàn cǐ jìng guān jiē zì dè Sì shí jiā xìng yǔ rén tóng Dào tōng tiān dì yǒu xíng wài Sì rù fēng yūn biàn tài zhōng Fú guì bù yīn pín jiàn lè P.H.N 2004 127 男儿到此是豪雄 Nán ēr dào cǐ shì háo xióng C Bất chợt mà thành (bài thơ) Nhàn rỗi vô sự (mà) chẳng ung dung Nằm ngủ, cửa sổ phía đông mặt trời đã hồng Bình tĩnh xem xét thấy muôn vật đều tự vận động Vẻ đẹp của bốn mùa ai cũng thấy như nhau Đạo thấu suốt muôn vật, đều có vẻ bên ngoài riêng Suy nghĩ thấu cả gió mây, lòng vương nhiều biến thái Giàu sang không sinh dâm, nghèo vẫn vui Làm trai đến như thế mới hào hùng Ngẫu thành Nhàn lai vô sự bất thong dong Thuỵ giác đông song nhật dĩ hồng Vạn vật tĩnh quan giai tự đắc Tứ thời giai hứng dữ nhân đồng Đạo thông thiên địa hữu hình ngoại Tứ nhập phong vân biến thái trung Phú quí bất dâm bần tiện lạc Nam nhi đáo thử thị hào hùng Lời bàn : Không hiểu sao soạn giả Ngô Văn Phú (Thiên gia thi ) lại phiên âm Hán Việt câu mở đầu là “ Nhàn lai vô sự bất tòng dong ” đáng lẽ phiên âm là thong dong/ thung dung/ ung dung chuẩn xác hơn . Thực ra câu mở đầu có vai trò vào đề , “nhàn rỗi không có việc gì đấy nhưng vẫn chẳng được ung dung”. Cái chân tay nhàn rỗi nhưng trí não không nhàn, vẫn bận suy xét sự đời . Phần chủ yếu của bài thơ là triết lí : muôn vật và con người tương đương với nhau . 5. Nguyên đán 元旦 Yuán dàn Vương An Thạch 王安石 Wáng An Shí 炮竹声中一岁除 春风送暖入屠苏 千门万户瞳瞳日 总把新挑换旧符 Pào zhú shēng zhōng yī suì chú Chūn fēng sòng nuǎn rù Tú Sū Qiān mén wàn hù tóng tóng rì Zǒng bǎ xīn táo huán jiù fú O P.H.N 2004 128 Tết nguyên đán Trong tiếng pháo trúc nổ vang một năm đã hết Gió xuân đưa hơi ấm thấm vào rượu Đồ Tô Muôn nhà nghìn hộ đều sáng sủa Nhà nào cũng đeo thẻ đào mới thay cái cũ phù hộ (người) Pháo (bộc) trúc thanh trung nhất tuế trừ Xuân phong tống noãn nhập Đồ Tô Thiên môn vạn hộ đồng đồng nhật Tổng bả tân đào hoán cựu phù dịch thơ : Chú thích: Pháo trúc : ngày xưa làm pháo bằng cách nhồi diêm tiêu vào ống tre trúc, gọi là bộc trúc . Đồ Tô một loại rượu cất bằng cỏ đồ tô uống mừng xum họp Thẻ đào : phong tục cổ, xuân về người ta vẽ một hình tượng trên gỗ đào, treo bên cổng hi vọng trừ ma quỉ . 6. Tây giang nguyệt 西江月 Chu Đôn Nho 朱 敦 儒 Zhu Dūn Rú (đời Tống) 日日深杯酒满 朝朝小圃花开 自歌自舞自开怀 且喜无拘无碍 青史几番春梦 Rì rì shēn bēi jiǔ mǎn Zhāo zhāo xiăo pǔ kāi huā Zì gē zì wǔ zì kāi huái Qiě xǐ wū jū wū ài P.H.N 2004 129 黄泉多少奇才 不须计较与安排 领取而今现在 Qīng shǐ jǐ fān chūn mèng Huáng quán duō shào qì cái Bù xū jì jiào yǔ ān pǎi Lǐng qǔ ēr jīn xiàn zài O Hàng ngày ly rượu tràn đầy Sớm sớm vườn nhỏ nở hoa Tự hát tự múa tự giải sầu cứ vui không hạn chế, không vướng víu Sử xanh (chỉ là) vài giấc mộng xuân Suối vàng (có) bao nhiêu anh tài ? Không cần tính toán với thu xếp Nhận lấy hôm nay trước mắt . Nhật nhật thâm bôi tửu mãn Triêu triêu tiểu phố hoa khai Tự ca tự vũ tự khai hoài thả hỉ vô câu vô ngại Thanh sử kỷ phiên xuân mộng Hoàng tuyền đa thiểu kì tài ? Bất tu kế giảo dữ an bài Lãnh thủ nhi kim hiện tại Ngày ngày có chén rượu đầy Trong vườn cũng có từng này hoa tươi Tự ca tự múa cho vui Mừng không còn chuyện bận tôi chút nào Sử xanh là giấc chiêm bao suối vàng đếm được hết sao anh tài Thôi đừng tính toán nhọc người Những gì trước mắt một vài vẫn hơn ( Lí Phúc Điền dịch thơ) Chú thích: Đây là lời bài Từ (không phải thơ), sáng tác cho điệu hát “Tây giang nguyệt”. Do đó lời “từ” không tuân theo các âm luật , không có đối và vần như thơ (thi) 7. Thôn cảnh tức sự 村 景 即 事 Cūn jǐng jí shì Ông Quyển 翁卷 Wēng juǎn 绿遍山原白满川 子规声里雨如烟 Lù biàn shān yuān bái mǎn chuān Zǐ guī shēng lǐ yǔ rū yān Xiāng cūn sì yuè xián rén shào P.H.N 2004 130 乡村四月闲人少 才了蚕桑又插田 Cái liǎo cán sāng yòu chā tián O Đồng ruộng đồi cao xanh trải khắp, nước sông trắng xoá Trong tiếng cuốc kêu mưa như khói Tháng Tư trong làng hiếm có ai nhàn rỗi Vừa xong chuyện tằm tơ đã lo gieo mạ cấy lúa Lục biến sơn nguyên, bạch mãn xuyên Tử qui thanh lí vũ như yên Hương thôn tứ nguyệt, nhàn nhân thiểu Tài liễu tàm tang hựu sáp điền Làng quê tháng Tư Lúa biếc đối cao, sông trắng dài Cuốc kêu trong dải khói mưa bay Tháng tư làng xóm nào ai rỗi Chưa hết tằm tang đã cấy cày ( NV Phú) 8. Thôn vãn 村 晚 Cūn wǎn Lôi Chấn 雷震 Lēi Zhèn 草满池塘水满陂 Cǎo mǎn chí táng shuǐ mǎn pí P.H.N 2004 131 山衔落日浸寒漪 牧童归去横牛背 短笛无腔信口吹 Shān xián luò rì jìn hán yī Mù tóng guī qù héng niū bèi Duǎn dì wū qiāng xìn kǒu chuī O Chiều quê Cỏ đầy ao, nước đầy chuôm Núi ngậm mặt trời lặn, nước lạnh gợn sóng Trẻ chăn trâu trở về ngồi ngang lưng trâu Chúm miệng thổi sáo không theo khúc điệu nào Thôn vãn Thảo mãn trì đường,thuỷ mãn bĩ Sơn hàm lạc nhật tẩm hàn y Mục đồng quí khứ hoành ngưu bối Đoản địch vô xoang tìn khẩu xuy 9. Xuân nhật ngẫu thành 春日偶成 Chūn rì ǒu chèng Trình Hiệu 程颢 Chèng Hào P.H.N 2004 132 云淡风轻近牛天 傍花随柳过前川 时人不识余心乐 将谓偷闲学少年 Yūn dàn fēng qīng jìn niù tiān Báng huā suí liǔ guò qián chuān Shí rén bù shì yū xīn lè Jiāng wèi tōu xián xué shào nián O Ngày xuân ngẫu nhiên thành thơ Mây thưa gió nhẹ trời gần trưa Bên hoa theo hàng liễu đến dòng sông phía trước Người cùng thời chẳng biết lòng ta đang lúc vui lại bảo ta chuốc lấy nhàn, học đám trẻ con Xuân nhật ngẫu thành Vân đạm phong khinh cận ngọ thiên Bàng hoa tuỳ liễu quá tiền xuyên Thời nhân bất thức dư tâm lạc Tương vị thâu nhàn học thiếu niên Mây thưa gió nhẹ gần trưa Bên hoa men liễu thẩn thơ sông ngoài Người đời nào biết ta vui Bảo ta dỗi dãi học đòi trẻ thơ ( Ngô Văn Phú dịch) 10. Xuân tiêu 春 宵 Chūn xiāo Tô Thức / Sū shì 苏轼 ( còn gọi Tô Đông Pha / Su Dong Po 苏东坡) P.H.N 2004 133 ( cuối đời Tống) 春宵一刻值千金 花有清香月有阴 歌管楼台声细细 秋千院络夜沉沉 Chūn xiāo yī kè zhí qiān jīn Huā yǒu qīng xiāng yuè yǒu yīn Gē guǎn lóu tái shēng xì xì Qiū qiān yuàn luò yě chén chén o Đêm xuân một khắc giá ngàn vàng Hoa có hương thơm trong lành, trăng toả bóng Tiếng hát tiếng sáo các lâu đài dìu dặt Cây đu trên sân trong đêm khuya nhún nhún Xuân tiêu nhất khắc trị thiên kim Hoa hữu thanh hương nguyệt hữu âm Ca quản lâu đài thanh tế tế Thu thiên viện lạc dạ trầm trầm Dịch thơ : Đêm xuân một khắc ngàn vàng Hoa thơm toả ngát trăng đằm bóng xuân Lầu cao đàn sáo vẳng ngân Vào khuya đu nhún trên sân bồng bềnh Lời bàn: Bài thơ tân hôn với cảm xúc tinh tế, thanh nhã và cổ điển D P.H.N 2004 134 P.H.N 2004 135 跋 Bạt Soạn giả đã sử dụng các tài liệu sau đây để nghiên cứu lựa chọn biên soạn : 1. Trung Hoa kinh điển văn khố nguyên văn Hán ngữ (đĩa CD-MP3) dùng làm tài liệu gốc. 2. Trong khi biên soạn, soạn giả còn tham khảo và đối chiếu những tài liệu sau : 2.1. Thơ Đường 2 tập ( nhóm soạn giả Nam Trân – Nxb Giáo dục – Hà Nôi 1987 ) 2.2. Đường thi tam bách thủ ( Trần Trọng Kim- Nxb Văn hoá thông tin – Hà Nội 1995) 2.3. Đường thi tam bách thủ ( Ngô Văn Phú- Nxb Hội nhà văn -Hà Nội 2000) 2.4. Thiên gia thi ( Ngô Văn Phú - Nxb Hội nhà văn -Hà Nội 1998) 2.5. Thơ Đường- Từ Tống (Lí Phúc Điền soạn – Nxb Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh 1997) 2.6. Thơ Đường - Tản Đà dịch (Nguyễn Quảng Tuân soạn – Nxb Văn học – Hà Nội 2003 ) Và một số tài liệu lẻ tẻ rời rạc khác . Trước hết vãn sinh ngỏ lời chân thành cảm tạ quí vị soạn giả, dịch giả tiền bối đã làm ra những sách trên . Với khả năng Hán ngữ ở cấp xoá mù, soạn giả đã nhận thấy trong các sách soạn ở Việt Nam có những bản dịch nghĩa quá sơ sài, đôi khi không chuẩn xác. Vậy nên soạn giả đã dịch lại những bài ấy cho thật sát nghĩa. Những sách ấy còn có những lỗi in sai chữ Hán, lầm chữ Hán Việt khiến soạn giả thấy cần bổ khuyết hiệu đính. Đặc biệt, soạn giả tự phiên âm Bắc Kinh để tiếp cận tiếng nói gốc của thơ. Chưa từng thấy sách nào ở Việt Nam biên soạn cả phần phiên âm Bắc Kinh . Nếu bạn hữu có hứng thú thì cũng dễ luyện thêm tiếng Hán, nghe rõ tiếng nói của thi nhân . Tập sách này chắc hẳn còn những sai sót hoặc về chính tả, phiên âm Hán ngữ hoặc những câu dịch chưa trọn nghĩa. Xin quí vị vui lòng chỉ giáo . Hi vọng một ngày nào đó soạn giả có điều kiện xuất bản quyển Đường thi nhất bách thủ này hầu mong cung cấp tài liệu cho những người có sở thích quan tâm đến thi ca cổ điển Trung Hoa. Tài liệu cũng có ích cho sinh viên học những ngành như Ngữ văn, Trung văn chuyên ngữ, Văn hoá Trung Quốc, Ngoại giao, Ngoại thương , Du lịch. . . Hi vọng một ngày nào quyển sách đó sẽ được in, như thơ Vương Duy “thi trung hữu hoạ”, sách bền đẹp hơn chứ không chỉ là tập sách đánh máy, in vi tính rồi photocopy thế này. 冯 怀 玉 寒 士 在 下 浔 阳 滩 “江 南 梦 昏 乱 江 北 ” 安 江 大 学 Phùng Hoài Ngọc Hàn sĩ tại hạ Tầm Dương bến “Giang Nam mộng lẫn vào Giang Bắc” An Giang Đại học tuyển tập mãn D 3 E P.H.N 2004 136
File đính kèm:
- duong thi.pdf