Bài giảng Ngữ văn - Phong trào thơ mới - Các thể thơ từ phong trào thơ mới

I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHONG TRÀO THƠ MỚI

Hoàn cảnh ra đời phong tào thơ mới

 Đế quốc Pháp xâm lược nước ta kéo

theo sự xâm nhập của văn minh phương Tây vào xã hội Việt Nam. Sự ảnh hưởng này tồn tại dưới hai dạng: hình thức và tư tưởng.

Về hình thức

 Nền khoa cử phong kiến dần được bãi bỏ (khoa thi cuối cùng năm 1919 chấm dứt chế độ khoa cử nặng nề )

Nền kinh tế phát triển, đô thị hình thành kéo theo báo chí, ngành xuất bản phát triển.

Sự xuất hiện của giai cấp tư sản, tiểu tư sản thành thị với những tư tưởng tình cảm mới, thị hiếu thẩm mĩ mới: “ở nhà Tây, đội mũ Tây, đi giày Tây”.

 

ppt55 trang | Chia sẻ: hienduc166 | Lượt xem: 511 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Ngữ văn - Phong trào thơ mới - Các thể thơ từ phong trào thơ mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút TẢI VỀ ở trên
hu Lướt mặt hồ thu (Tiếng trúc tuyệt vời- Thế Lữ)Cải tạo lại thơ Tiếng Việt từ câu thơ “ điệu ngâm” sang câu thơ “điệu nói” Thơ mới làm thay đổi nhãn quan thơ, thay đổi tiêu chuẩn đánh giá hình thức thơ của thơ cổ. Thơ cổ giảm thiểu tối đa các yếu tố ngữ điệu, giọng điệu, màu sắc, cảm xúc của tác giả. Thơ mới đem lại một ngôn ngữ thơ gắn với lời nói và dòng ngữ điệu- cảm xúc của con người. Tâm thế sáng tạo thơ đã chuyển từ ý, hình, sang lời, giọng, điệu.Câu thơ mới đã được chủ thể hóa, cá thể hóa cao độ để gắn với lời phân trần, tiếng giục giã, câu tâm sự. chất liệu thơ không chỉ là từ, mà còn là ngữ, giọng, điệu.“Mau với chứ vội vàng lên với chứ!Em, em ơi, tình non đã già rồiCon tim hồng trái tim nhỏ của tôiMau với chứ, thời gian không đứng đợi”(Giục giã- Xuân Diệu)Thơ mới chú trọng về mặt âm điệu, dùng lối điệp âm bên trong dòng thơ để nói cái dài, rộng của không gian, của nỗi buồn.“Đưa người ta không đưa sang sôngSao có tiếng sóng ở trong lòng”(Thâm Tâm)Nhịp điệu thơ mới rất đa dạng, có khi gấp gáp, nhanh nhẹn lúc lại nhẹ nhàng, khoan thai.Cách hiệp vần: phong phú. So với thơ cũ trong thơ mới có hai sự thay đổi trong cách gieo vần, ở cuối mỗi câu đều có gieo vần khác với luật thi chỉ gieo vần ở cuối câu đầu và câu chẵn.Thơ mới còn chịu ảnh hưởng của cách hiệp vần phương tây.	+ Vần liên tiếp : a – a – b - b.	+ Vần ôm : a – b – b - a	+ vần giản cách : a – b – a - b.Nhạc điệu thơ mới: nhạc điệu dân tộc + nhạc điệu thơ pháp, thơ cổ điển+ nhạc điệu thơ ĐườngRất được chú trọngNgôn ngữ: giàu hình tượng, cảm xúc,khả năng kết hợp giữa các từ rất đa dạng, mới mà táo bạo, nhiều hình dung từ xuất hiện làm giàu thêm vốn ngôn ngữ của dân tộc. Tăng cường sử dụng tính từ trong câu thơ để tạo sức gợi cảm.Sử dụng rộng rãi các biện pháp tu từ làm câu thơ giàu hình tượng, tăng sức gợi cảmHọc tập từ thơ ca Pháp lối diễn tả tinh tế bằng cảm giác, bằng màu sắc của hội họGiải phóng câu thơ, tạo dáng lạ cho câu thơ tiếng ViệtCác thể thơ 8,7,6 ,5 chữ vẫn được sử dụng lại nhưng câu thơ đã khác hẳn (được nói rõ ở phần sau).2. Cái tôi cá nhân trong thơ mớiTrong thơ mới cái tôi cá nhân đã được ý thức đầy đủCái mới của thơ mới là dám coi cái “tôi” cá nhân như một quan điểm, một tư cách để nhìn đời và nói với mọi người.Hoài Thanh trong “Thi nhân Việt Nam”: “Ngày thứ nhất- ai biết đích ngày nào- chữ tôi xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, nó thực bỡ ngỡ. Nó như lạc loài nơi đất khách: Bởi nó mang theo một quan niệm chưa từng thấy ở xứ này: “ quan niệm cá nhân”.Lấy cái tôi cá nhân làm đề tài, làm trung tâm của thơ ca, thể hiện khát vọng được thể hiện mìnhGiải thoát khỏi quan điểm duy lý và giáo huấn vốn là sự ràng buộc của cái chung truyền thống đối với mỗi cá nhân.3. Thơ mới thể hiện cái nhìn hướng ngoại.hướng ngoại: miêu tả thế giới bên ngoài (còn hướng nội là nhìn vào nội tâm.)Lê Đình Kỵ: hướng ngoại như một nguyên tắc xây dựng hình tượng thơ, Giải phóng cho thi nhân khỏi cái khung lí tính để trực tiếp cảm nhận thế giới bên ngoài bằng cả tâm hồn nhà thơthơ cổ làm theo cái hiểu cái biết hơn là cái cảm.Thơ mới chư trọng đến yếu tố hình tượngĐặc trưng của cái nhìn hướng ngoạiCái nhìn hướng ngoại của thơ mới vừa có thể tiếp cận lối tả chân mặt khác lại có thể phát triển thành cái nhìn tượng trưng, siêu thực.Xuân Diệu không chỉ hướng ngoại theo lối “tả chân ” mà còn huy động giác quan để tái hiện một thế giới khách thể sống động, hữu hình của cái vô hình.Cái nhìn hướng ngoại trong thơ mới là một thi pháp mới có nhiều biểu hiện đa dạng. Nó có thể tả chân, ký sự theo kiểu phong tục, trực quan, có thể biểu hiện những giấc mơ đẹp như cổ tích khắc họa những bức tranh thế giới đậm màu sắc tượng trưng.Tóm lại: Thi pháp thơ mới không tồn tại tách biệt hoàn toàn với các yếu tố thi pháp cổ điển. Tuy nhiên để nhận ra chất thơ mới người ta buộc phải tách ra và đối lập nó với thơ cũ.III. Các thể thơ từ phong trào thơ mới đến nay.Phong trào thơ mới: được coi là một cuộc đánh giá lại các thể thơ cũ, tiếp thu những cái tốt đẹp của truyền thống cũ đồng thời học tập một cách có sáng tạo thơ ca nước ngoài. Các nhà thơ mới nhận ra rằng thể thơ cũ ( luật thi) có phần nào gò bó, cứng nhắc ( nhất là về phương diện bố cục, đối ý, đối chữ) vì vậy gây khó khăn cho việc thể hiện nội dung tư tưởng, tình cảm mới nên bị phá vỡ.3.1.Thơ 8 chữ (tám âm tiết).Phát triển từ thể ca trù của dân tộc.Trong ca trù: số chữ của một câu không nhất định có cả yêu vận và cước vận chuyển hóa thành thơ tám chữ: yêu vận mất, phần nhiều biến thành vần liên châu(cuối mỗi câu hạ một vần). Trong một số bài thơ “ Tần Hồng Châu”, “ Kinh Kha” của Nguyễn Huy Thông vẫn còn giữ được yêu vận.Thế Lữ là người có công đầu trong việc làm cho thể thơ tám chữ thành thuần thục. Sau đó Huy Cận, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử cũng khá thành công trong thể thơ này.“Bữa nay lạnh mặt trơì đi ngủ sớmAnh nhớ em, em hỡi, anh nhớ em!”(Tương tư, chiều- Xuân Diệu)3.2 Thơ bảy chữ:Thơ bảy chữ: xử lý lại từ thơ Đường Luật Cách đặt câu cũng như bố trí thanh bằng, thanh trắc trong câu thơ cũng gần giống như thơ Đường có điều là không chặt chẽ như thơ Đường.Thơ bảy chữ cũng có nhiều dạng, có dạng giống như thơ luật nhưng niêm luật và các quy định khác không có như thơ luật.Thơ thẩn rừng chiều một khách thơSay nhìn xa rặng núi xanh lơKhí trời lặng lẽ và trong trẻoThấp thoáng rừng mơ cô hái mơ(Cô hái mơ- Nguyễn Bính)Cũng có những bài hoàn toàn là thơ mới: Vạn Lý Tình (Huy Cận- Lữa Thiêng)Thơ bảy chữ được bố trí nhiều dạng, bốn câu, tám, mười hoặc nhiều hơn nữa nhưng phổ biến là ở dạng bốn câu thành một đoạn và bài thơ gồm nhiều đoạn.Những bài thơ thất ngôn của Xuân diệu như “Huyền Diệu”, “Nguyệt Cầm” là sự kết hợp giữa lối thất ngôn cổ phong xưa với những bài thơ bốn khổ, mỗi khổ bốn câu của Baude Lare (Chim Hải Âu, Giai Điệu Buổi Chiều).3.3 Thơ sáu chữXuất phát từ thể lục ngôn cổ được dùng lại. Đây là một dạng từ trong thơ cổ phong. Thơ lục ngôn khi đọc lên thường ít nhạc điệu do đó rất ít người làm.3.4 Thơ năm chữ:Xuất xứ từ thể thơ ngũ ngôn Đường luật nhưng ngụ ngôn của thơ mới mềm mại hơn, uyển chuyển hơn thơ cổ phong. Thơ năm chữ cũng đã từng xuất hiện trong ca dao.Ví dụ: Chùa Hương – Nguyễn Nhược Pháp	 Viễn Khách – Xuân Diệu.Em không nghe rừng thuLá thu kêu xào xạcCon nai vàng ngơ ngácĐạp trên lá vàng khô(Tiếng thu – Lưu Trọng Lư)3.5 Thơ bốn chữ:Thể thơ này ở Việt Nam thường phổ biến trong ca dao, tục ngữ, vè nói lối, đây là một thể thơ hấp dẫn nên vẫn được các nhà thơ mới sử dụng lại.Ví dụ : Chiều Xuân (Huy Cận).Xuân gội tràn đầyGiữa lòng hoan lạcTrên mình hoa cây”3.6 Thơ ba chữBắt nguồn từ thể loại đồng dao của người việt: dễ dọc, dễ viết, dễ nhớVần gieo liên tiếp, cứ 2 câu 1 vần, 2bằng liền xen kẽ 2 trắc liền, vần sau vẫn tiếp vần trước“con bướm vàngBay nhẹ nhàngtrên bờ cỏ”(con bướm vàng- trần đăng khoa)3.7 Thơ hai chữrất hiếm có ở việt nam, ít người làmvần:những từ có thanh âm giống nhau, câu thơ có sự tương ứng lẫn nhau co âm điệu, dễ nhớvần gieo liên tiếp từ nôm liền với từ tựtài tình: từng cặp đối nhau 2 từ một cả về từ lẫn ý“Sương rơiNặng trĩuTrên cànhDương liễu”(sương rơi)3.8 Thơ mười , mười hai chữ trở lên.Đây là một cuộc thử nghiệm tương đối táo bạocó thể xem nó là hình bóng của thơ tự do và thơ văn xuôi sau này. Sự thể nghiệm này của Nguyễn Vỹ, Nguyễn Thị Kiêm (thuộc trường thơ Bạch Nga) không thành công, phải đến sau kháng chiến chống Pháp nó mới được sử dụng rộng rãi và gặt hái được nhiều thành quả đáng kể.“tôi gặp anh buổi chiều đông ánh lờ mờ trên sông núinhuốm một màu chết tiêu ma trong lòng người ngoài gió bụi”(viếng mồ lữ khách- mộng sơn)3.9 Thơ lục bát và song thất lục bát:Trong phong trào thơ mới, thể thơ lục bát vẫn được nâng niu. Huy Cận, Nguyễn Bính. Đem đến cho lục bát một không khí mới. Song thất lục bát không mất hẳn nhưng ít được dùng hơn trước.3.10 Thơ thị giácĐây là một cách thể nghiệm mới, thể thơ này tác động trực tiếp vào thị giác của người đọc bằng cách xếp chữ tạo hình.Hoàng Hôn, Mưa của Nguyễn VỹTối của Trần Hữu ChưongHoàng hônMột đànCò con Trắng nõn Trắng non Bay về Sườn non Gió giục Mây dồn, Tiếng gọi Hoàng hôn Buồn bã Nỉ non Từ giã Cô thôn Cò con Cò con Trắng non Nào kia Lạc bầy, Lại bay Vào mây Ô kìa!tiếng chuông chùabốn phương trời sương sa tiếng chuông chùa ngân nga..trời lặng êm nghe rêm tiếng chuông rơi thảnh thơi êm đềmhồi chuông trôi êm ru vô âm u hồn tôi3.11 Thơ văn xuôi:Thể loại mới, xuất hiện ở Xuân Thu Nhã Tập, và sau cách mạng thể thơ phát triển (tiêu biểu là đại diện Nguyễn Văn Hạnh)Sau cách mạng tháng tám, thể thơ được cải cách từ phong trào thơ mới vẫn được tiếp tục sử dụng nhưng do hoàn cảnh thực tế của xã hội nên các thể thơ dân gian được dùng rộng rãi hơn. Một số thể thơ trong phong trào thơ mới thử nghiệm chưa thành công thì ở giai đoạn sau này đã khẳng định được vị thế.3.12 Thể thơ kịch:Thể loại mới do ảnh hưởng từ thơ Pháp. Thực chất là một bài thơ dài, hình thức đối thoại giúp cho ý thơ đi xa hơn, đỡ đơn điệu, hơn nữa phù hơp với sự diễn biến tình cảm.Ví dụ: Tiếng Địch Sông Ô, Anh Nga của Huy Thông Mỵ Châu Trọng Thủy của Xuân Diệu.3.13Thể thơ độc tấu:Ra đời trong kháng chiến, xuất phát từ thực tiễn của cuộc cách mạng, thể độc tấu ra đời đã đáp ứng được nhu cầu tuyên truyền của cách mạng. Người có công đầu là Thanh Tịnh.Trong phong trào thơ đương đại hầu như không xuất hiện các thể thơ mới mà chủ yếu là đổi mới về phong cách thơ, đổi mới về cách dùng câu chữSÁCH THAM KHẢO:Thơ mới những bước thăng trầm- Lê Đình Kỵ- NXBTPHCM. 1989.Phong trào thơ mới - Phan Cư Đệ- NXB Khoa Học Hà Nội. 1996.Tiến trình thơ Việt Nam hiện đại - Mã Giang Lân – NXB GD.Văn học Việt Nam 1900-1945- Phan Cư Đệ, Trần Đình Hựu.. NXBGD.Thi pháp hiện đại- Đỗ Đức Hiểu – NXB HNVThơ mới và sự đổi mới thi pháp thơ trữ tình tiếng Việt – Trần Đình Sử- Tạp chí văn học số 6/1993.Cuộc cải cách thơ của phong trào thơ mới và tiếng trình thơ tiếng Việt – Lại Nguyên Ân – Tạp chí VH số 1/1993.Tìm hiểu các thể thơ Việt Nam từ thơ cổ phong đến thơ đường luật (lạc nam.nxb văn học 1996)Thơ mới-tác phẩm và dư (nxb văn học-2002)ngôn ngữ thơ văn học việt nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XX (Nguyễn phạm hùng, nxb dhqg hà nội, 1999)

File đính kèm:

  • pptphong_trao_tho_moi.ppt
Bài giảng liên quan