Chuyên đề Khoa học - Công nghệ và sự văn minh hóa xã hội loài người
A – MỞ ĐẦU
B – NỘI DUNG
I. CUỘC CÁCH MẠNG KHOA HOC - CÔNG NGHỆ
1. Khái niệm Khoa học - Công nghệ.
2. Nguồn gốc và đặc điểm.
3. Những thành tựu tiêu biểu.
Hạn chế.
II. VĂN MINH HÓA XÃ HỘI LOÀI NGƯỜI
1. Khái niệm
2. Những thành tựu của văn minh hóa.
2.1. Chữ viết
2.2. Văn học.
2.3. Giáo dục.
2.4. Khoa học kỹ thuật.
2.5. Nghệ thuật
không có sự lưu truyền thì không có sự phát triển xã hội. 2.2. Văn học. - Chủ yếu nói tới Văn học viết, còn văn học dân gian ít được đề cập. Chỉ có văn học viết mới tạo ra các thể loại của văn học. Là biểu hiện quan trọng của nền văn minh.2.3. Giáo dục.Giáo dục hình thành một cách đầy đủ hơn khi chữ viết ra đời Gìn giữ di sản của loài người để phát triển ở thế hệ sau. Từ giáo dục đào tạo ra một lớp người mang những tinh hoa của thế hệ trước, có khả năng phát triển ở giai đoạn sau.2.4. Khoa học kỹ thuật. - Trong lao động, con người tổng kết những kinh nghiệm mang tính chất chung, đúc rút ra các nguyên lý và ứng dụng nó vào quá trình lao động sản xuất, phục vụ cuộc sống. Khoa học kỹ thuật được coi là yếu tố quan trọng của văn minh, thể hiện trí tuệ con nguời.Khoa học chính là biện pháp giúp con nguời thích ứng, cải tạo tự nhiên và chính bản thân mình. Khoa học – kỹ thuật ngày càng phát triển thì xã hội càng văn minh. 2.5. Nghệ thuật - Trong nghệ thuật có nhiều lĩnh vực khác nhau. Nghệ thuật có liên quan đến văn minh. - Cái đẹp là điều quan tâm đầu tiên trong nghệ thuật Vẻ đẹp này mỗi giai đoạn lại có quan niệm khác nhau. - Đẹp là sự hài hòa giữa cái chủ quan và khách quan.MÚA HỒ THIÊN NGAIII. CÁCH MẠNG KHOA HỌC KỸ THUẬT GẮN LIỀN VỚI SỰ VĂN MINH HÓA XÃ HỘI LOÀI NGƯỜITừ khi có loài người đến nay, sự phát triển của con người luôn dựa vào tri thức, vào khả năng sáng tạo, tức là dựa vào khoa học - công nghệ. Song ở các thời kỳ khác nhau thì tác động của khoa học - công nghệ ở mức rất khác nhau. Ở thời kỳ tiền sử - một thời gian rất dài, con người chủ yếu làm theo bản năng, có ít tri thức, không đủ để có sáng tạo. Chuyển sang thời đại văn minh nông nghiệp, con người bắt đầu có những sáng tạo như tạo ra các công cụ trồng trọt (cái cày, cây cuốc) và biết tưới nước, tuy nhiên cũng phải mất tới 4000 - 5000 năm sau con người mới bắt đầu có tri thức thật sự, nhận thức được các quy luật khách quan và bước sang một thời đại mới là thời đại công nghiệp, thời đại của những sáng tạo kỹ thuật lớn lao. Trong thời gian gần đây, đặc biệt là những năm 80 và nhất là những năm 90 này khoa học - công nghệ phát triển với tốc độ phi thường. Trước đây, khoa học với công nghệ còn tách riêng, nói khoa học là nói phần kiến thức, phần con người hiểu biết các qui luật khách quan, khám phá (phát minh) ra những điều chưa biết, là cái đã có trong tự nhiên nhưng con người chưa biết. Còn công nghệ là sự hiểu biết mới, được sử dụng vào hoạt động lao động, làm ra của cải, là cái chưa có, do vậy nói sáng tạo ra công nghệ, là sáng chế ra những cái mới. Trong một thời gian rất dài, khoa học, công nghệ hay còn gọi là kỹ thuật, và sản xuất là ba lĩnh vực tách rời nhau. Bất cứ sản phẩm mới nào ra đời cũng phải theo con đường từ khoa học đến công nghệ rồi mới ra sản xuất. Song gần đây tạo các công nghệ mới chỉ mất vài năm. Và có nhiều cái còn nhanh hơn; khoa học trực tiếp chuyển thành công nghệ và sản xuất. Ðiều Mác nói: khoa học phát triển tới một lúc nào đó sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, và khoa học trực tiếp làm ra sản phẩm, đã trở thành hiện thực. Nó thể hiện rất rõ trong các ngành công nghệ cao. Có thể nói rằng cuộc cách mạng khoa học mới hay còn gọi là "cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại" bắt đầu từ những năm 50, sau Ðại chiến thế giới lần thứ hai, có đặc điểm là phát triển rất mạnh mẽ, khoa học gắn liền với công nghệ (trước kia ta gọi là kỹ thuật). Kỹ thuật gắn với khoa học làm một. Bên cạnh khái niệm "cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại", còn có khái niệm "cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba" (Cách gọi này xuất phát từ khía cạnh công nghiệp). Xét khía cạnh trình độ kỹ thuật thì khái niệm lâu nay vẫn dùng là "cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại". IV. THÀNH TỰU KHOA HỌC CÔNG NGHỆ CỦA VIỆT NAM.1. Giàn khoan tự nâng 90m nướcĐây là giàn khoan đầu tiên của Việt Nam có thể đạt tới độ sâu 90m nước, thuộc sở hữu của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN). Ở Việt Nam, dự án cơ khí này được tài trợ nhiều nhất. Sau khi dự án được lắp đặt thành công trên biển, Việt Nam có thể tự hào là quốc gia sở hữu giàn khoan có chất lượng nằm trong top 3 khu vực châu Á và top 10 trên thế giới.Giàn khoan tự nâng 90m nước của Tập đoàn PVN2. Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt tái hoạt động Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt đã hoạt động 3 lần trong nửa thế kỷ vừa qua, một lần vào năm 1963, một lần vào năm 1984, và lần gần đây nhất là vào năm 2011. Lần hoạt động thứ ba này diễn ra vào ngày 30/10/2011, đánh dấu một cột mốc quan trọng trong lịch sử phát triển của lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt. Điều này một lần nữa đã chứng minh rằng Việt Nam có khả năng cung cấp một nguồn năng lượng nguyên tử ổn định; nó cũng đánh dấu một bước phát triển trong việc sản xuất năng lượng trong nước nói chung. Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt3. Máy soi cắt lớp điện toán trong công nghiệp Cũng là một loại máy chụp X quang, nhưng thay vì chỉ phát ra một tín hiệu của tia X đến với vật thể được chụp, máy soi cắt lớp điện toán sẽ phát ra nhiều tia X cùng một lúc từ những góc độ khác nhau. Máy được các nhà khoa học của Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam (Vietnam Atomic Energy Commission, VAEC) thiết kế và sản xuất. Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (The International Atomic Energy Agency, IAEA) đã đặt mua 6 chiếc máy nói trên.Lắp ráp máy CT để bàn giao cho IAEA (ảnh MC)4. Dây chuyền sản xuất thiết bị điện tử viễn thôngDây chuyền sản xuất thiết bị điện tử viễn thông tân tiến nhất ở khu vực Đông Nam Á được xây dựng và đưa vào hoạt động bởi Trung tâm sản xuất thiết bị điện tử Viettel (một công ty con thuộc tập đoàn viễn thông Viettel). Dây chuyền có khả năng sản xuất khoảng 5 triệu sản phẩm USB, 3 triệu điện thoại di động, và 9 trăm nghìn máy tính cá nhân mỗi năm. Các kỹ sư đang vận hành dây chuyền sản xuất thiết bị điện tử viễn thông5. Phương pháp phẫu thuật nội soi cắt các khối u tuyến tụyKhoa Phẫu thuật bụng - Bệnh viện 103, Hà Nội đã thành công trong việc xây dựng và hoàn thiện một phương pháp phẫu thuật nội soi có thể loại bỏ các khối u ở tuyến tụy. Đây là loại phẫu thuật cực kỳ phức tạp và liên quan đến các thiết bị kỹ thuật cao. Sự thành công của phương pháp này đánh dấu một cột mốc mới về phẫu thuật nội soi ổ bụng tại Việt Nam.Một kíp mổ nội soi của Bệnh viện 103, Hà Nội đang tiến hành phẫu thuậtV. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẾN NĂM 2020 VÀ TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030Quan điểm1- Phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; là một nội dung cần được ưu tiên tập trung đầu tư trước một bước trong hoạt động của các ngành, các cấp.Sự lãnh đạo của Đảng, năng lực quản lý của Nhà nước và tài năng, tâm huyết của đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ đóng vai trò quyết định thành công của sự nghiệp phát triển khoa học và công nghệ.2- Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ về tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động, công tác xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển khoa học và công nghệ; phương thức đầu tư, cơ chế tài chính, chính sách cán bộ, cơ chế tự chủ của các tổ chức khoa học và công nghệ phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 3- Đầu tư cho nhân lực khoa học và công nghệ là đầu tư cho phát triển bền vững, trực tiếp nâng tầm trí tuệ và sức mạnh của dân tộc. Đảng và Nhà nước có chính sách phát triển, phát huy và trọng dụng đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ.4- Ưu tiên và tập trung mọi nguồn lực quốc gia cho phát triển khoa học và công nghệ. Nhà nước có trách nhiệm đầu tư, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển hạ tầng, nâng cao đồng bộ tiềm lực khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, kỹ thuật và công nghệ. Chú trọng nghiên cứu ứng dụng và triển khai; coi doanh nghiệp và các đơn vị dịch vụ công là trung tâm của đổi mới ứng dụng và chuyển giao công nghệ, là nguồn cầu quan trọng nhất của thị trường khoa học và công nghệ. Quan tâm đúng mức đến nghiên cứu cơ bản, tiếp thu và làm chủ công nghệ tiên tiến của thế giới phù hợp với điều kiện Việt Nam.5- Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để cập nhật tri thức khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới, thu hút nguồn lực và chuyên gia, người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài tham gia các dự án khoa học và công nghệ của Việt Nam. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để sinh viên, nghiên cứu sinh, thực tập sinh sau khi được đào tạo ở nước ngoài về nước làm việc.C. KẾT LUẬN Thế kỷ XXI sẽ đánh dấu sự ra đời của nền văn minh mới trong lịch sử loài người. Về tên gọi của nền văn minh đang phôi thai này thì còn có nhiều ý kiến khác nhau, có người gọi là "nền văn minh hậu công nghiệp", "nền văn minh trí tuệ", "xã hội tri thức", "nền kinh tế tri thức", "xã hội thông tin" ... Ðây là bước chuyển biến đặc biệt lớn tương tự như bước chuyển từ thời tiền sử sang văn minh nông nghiệp hay từ văn minh nông nghiệp sang văn minh công nghiệp. Nền văn minh công nghiệp so với nông nghiệp thì mới chỉ là thay thế cơ bắp con người và giúp con người sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Thời kỳ văn minh nông nghiệp con người mới sử dụng đến lao động và đất đai. Cách mạng công nghiệp đã làm cho sức con người lớn hơn rất nhiều, sử dụng được nhiều tài nguyên. Song đã lâu cách sản xuất công nghiệp, sản xuất ào ạt, tiêu thụ ào ạt không còn thích hợp nữa, một phần bởi tài nguyên đã cạn kiệt mặt khác bởi những thách thức về môi trường đã trở nên rất gay gắt. Ðể phát triển, con người phải bước lên một giai đoạn mới, giai đoạn sử dụng tri thức nhiều hơn sử dụng tài nguyên, tài nguyên được sử dụng một cách hợp lý hơn. Khoa học - công nghệ do con người làm ra lại góp phần nâng cao trí tuệ con người. Con người thực sự làm chủ xã hội, làm chủ tự nhiên và làm chủ bản thân. Ðó chính là tác động lớn nhất của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật mới.CẢM ƠN THẦY VÀ CÁC BẠN CHÚ Ý THEO DÕICHÀO TẠM BIỆT!
File đính kèm:
- Chuyen de Triet hoc.ppt