Đề tài Một số vấn đề về Thanh toán không dùng tiền mặt tại ngân hàng đầu tư và phát triển Cao Bằng - Thực trạng và giải pháp
Đất Nước ta hiện nay đang trong tiến trình thực hiện công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Mục tiêu của công nghiệp hoá và hiện đại hoá là xây dựng đất nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Để thực hiện được công nghiệp hoá hiện đại hoá là trách nhiệm của nhiều ngành kinh tế trong đó có ngành Ngân hàng.
Ngày nay ngành Ngân hàng được coi là ngành kinh tế huyết mạch, có tầm quan trọng đặc biệt góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước, để thực hiện tốt nhiệm vụ trọng tâm mà Đảng và Nhà nước giao cho, một trong những vấn đề cấp bách đặt ra với ngành ngân hàng là phải xây dựng được hệ thống đủ mạnh trên tất cả các lĩnh vực: năng lực hoạch định, thực thi chính sách, năng lực điều hành, quản lý, kinh doanh, trình độ công nghệ, kỹ thuật hiên đại thích ứng với cơ chế thị trường. Nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường đòi hỏi sự luân chuyển vốn nhanh. Vì vậy, đi đôi với việc đổi mới về cơ chế tổ chức, về nghiệp vụ ngành Ngân hàng đã tập trung cải tiến chế độ thanh toán không dùng tiền mặt.
Là một nghiệp vụ đa dạng và phức tạp nên phương thức thanh toán không dùng tiền mặt vẫn còn một số tồn tại cần quan tâm nghên cứu để có những giải pháp tốt đảm bảo sự an toàn và độ tin cậy cao mà vẫn không làm chậm tốc độ thanh toán tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng.
Nhận thức được những vấn đề nêu trên và xuất phát từ tình hình thực tế tại NHĐT&PT Cao Bằng. Em mạnh dạn chọn đề tài “Một số vấn đề về Thanh toán không dùng tiền mặt tại NHĐT&PT Cao Bằng - Thực trạng và giải pháp” .
đẩy mạnh lắp đặt hệ thống máy giao dịch tự động ATM (Automated Teller Machine) trên phạm vi cả nước. Tuy nhiên số lượng máy ATM lắp đặt còn quá ít, chủ yếu tập trung ở các khu vực trung tâm của các thành phố lớn, chưa đáp ứng được yêu cầu giao dịch của người dân. Các dịch vụ tại máy ATM chưa đa dạng ...Khách hàng khi nhận thẻ phát hành của Ngân hàng nào phải đến hệ thống ATM của chính Ngân hàng đó lắp đặt mới có thể thực hiện đựoc các giao dịch ...Tình trạng này không những hạn chế việc sử dụng thẻ của khách hàng, còn gây lãng phí cho nền kinh tế --xã hội ...Do vậy, các Ngân hàng cần đẩy mạnh phát triển hệ thống máy ATM hơn nữa . Các Ngân hàng cần có sự thống nhất với nhau về việc phát triển các loại hình dịch vụ ATM, cần có sự kết nối hệ các máy ATM ....Từ đó, thúc đẩy khách hàng sử dụng loại hình dịch vụ hiện đại này. Bên cạnh những hình thức thanh toán trên, một hình thức thanh toán khác đang được các Ngân hàng quan tâm là mở rộng và sử dụng tài khoản cá nhân, góp phần khai thác vốn đầu tư, ổn định lưu thông tiền tệ, cải tạo và xoá bỏ dần tập quán chỉ sử dụng tiền mặt trong dân cư, nâng cao hiệu quả thanh toán trong nền kinh tế. Để khuyến khích người dân mở và sử dụng tài khoản cá nhân về phía các Ngân hàng cần tạo sự tin tưởng của người dân vào hệ thống Ngân hàng, đi sâu tiếp cận vào các đối tượng có thu nhập ổn định, thường xuyên có các khoản thanh toán đều kỳ cho các doanh nghiệp như: Tiền nước, phí bưu chính viến thông, điện thoại ...Thúc đẩy thói quen sử dụng các công cụ TTKDTM . 3.2.2 Các kiến nghị để hoàn thiện giải pháp: 3.2.2.1 Kiến nghị với nhà nước. Hoạt động thanh toán không phải là nghiệp vụ riêng của ngân hàng mà là sản phẩm dịch vụ Ngân hàng cung cấp cho nền kinh tế. Để đáp ứng nhu cầu thanh toán vốn của các doanh nghiệp, TCKT và các cá nhân trong nền kinh tế, do vậy, ở tầm vĩ mô cần phải có chính sách phù hợp để điều chỉnh hoạt động này. Mặc dù trong những năm gần đây hệ thống thanh toán của ngành ngân hàng nước ta được cải thiện đáng kể và phục vụ khá tốt cho khách hàng đặc biệt trong thanh toán với các ngân hàng nước ngoài (ở Việt Nam đã tham gia thanh toán SWIFT nhưng Việt Nam vẫn được đánh giá là chưa thoát khỏi ‘nền kinh tế tiền mặt’ do hoạt động TTKDTM qua ngân hàng trong nước vẫn chưa có chuyển biến gì đáng kể, vẫn chưa vượt qua con số 70% so với tổng doanh số thanh toán của các doanh nghiệp, trong khi đó ở các nước phát triển tỷ lệ này là trên 90%. Xuất phát từ tình hình thực tế của hoạt động thanh toán tại địa bàn tỉnh Cao Bằng cũng như trong phạm vi cả nước tôi xin mạnh dạn nêu một số kiến nghị với nhà nước để giải pháp có tính khả thi. - Chính phủ nên hoàn chỉnh hơn nữa hành lang pháp lý cho hoạt động thanh toán bằng cách tiếp tục ban hành một số băn bản pháp lý cho hoạt động thanh toán. Chính phủ đã ban hành nghị định 64/2001/NĐCP ngày 20/09/2001 “Về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán”. Tuy vậy trong các văn bản pháp lý này những điều khoản đảm bảo quyền lợi cho các bên tham gia thanh toán vẫn chưa được thể hiện rõ ràng. Cách thức ban hành văn bản theo kiểu chỉ có thể triển khai trong các ngân hàng và các doanh nghiệp, rất khó đến được với dân chúng. Những quy định về thủ tục thanh toán còn phức tạp, chưa theo thông lệ quốc tế nhất là séc một công cụ thanh toán rất phổ biến trên thế giới hoặc còn chung chung. - Xã hội càng phát triển, thu nhập của người dân càng tăng, nhu cầu dịch vụ đựơc sử dụng ngày càng lớn. Do đó nếu không triển khai đồng bộ các biện pháp, mở rộng áp dụng phương thức TTKDTM, thì khối lượng thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt càng tăng theo cấp số nhân, càng tăng thêm nhiều áp lực cho xã hội nhất là các ngành Ngân hàng. Bởi vậy đối với các cơ quan nhà nước, khi mua bán, chi tiêu với doanh nghiệp đều phải thực hiện thanh toán qua Ngân hàng. Để tạo điều kiện cho các cơ quan nhà nước thanh toán qua hệ thống Ngân hàng, nhà nước cần cho phép và bắt buộc các cơ quan nhà nước, các đơn vị tổ chức phải mở tài khoản giao dịch ở Ngân hàng thương mại gần nhất. Đối với các doanh nghiệp, TCKT việc mở tài khoản tại Ngân hàng và thanh toán qua Ngân hàng trong các lĩnh vực kinh doanh hàng ngày là bắt buộc. Đối với cá nhân có các giao dịch mua bán lớn... đều phải thanh toán qua Ngân hàng một cách bắt buộc. 3.3.2 Kiến nghị với NHNN. Với vai trò là người quản lý, chi đạo, tổ chức hệ thống thanh toán trong nền kinh tế NHNN đã tham mưu cho chính phủ hoặc trực tiếp điều hành hoạt động thanh toán trong toàn ngành Ngân hàng ra các văn bản pháp quy hướng dẫn thực hiện dịch vụ thanh toán, để làm tốt nghiệp vụ này đề nghị NHNN thực hiện một số nội dung sau: -Tiếp tục hoàn thiện các văn bản hướng dẫn về tổ chức thanh toán trong nền kinh tế như hướng dẫn sử dụng séc theo nghị định 159/CP của chính phủ về séc. -Trong năm 2002 NHNN đã triển khai thanh toán chuyển tiền điện tử liên Ngân hàng và kết quả rất khả quan nhưng mới chỉ dừng lại ở các ngân hàng thí điểm gồm sở giao dịch NHNN và 5 tỉnh chưa mở rộng ra toàn quốc do đa số các ngân hàng chưa đáp ứng được yêu cầu về trang bị kỹ thuật và điều quan trọng hơn là về tổ chức thực hiện. Do vậy, đề nghị NHNN cần giúp đỡ các NHTM còn lại để có đủ điều kiện tham gia thanh toán điện tử liên Ngân hàng. 3.2.2.3-Kiến nghị với NHĐT&PT Việt Nam. -Để tạo điều kiện cho chi nhánh NHĐT&PT Cao Bằng đứng vững trên thương trường kinh doanh và hoàn thành kế hoạch được giao đề nghị trung ương theo dõi và thường xuyên quan tâm chỉ đạo, tạo điều kiện cho chi nhánh về mọi mặt hoạt động nhất là cán bộ có trình độ chuyên môn về tin học. -Trung ương hỗ trợ chính sách đầu tư phục vụ miền núi với các dự án phát triển kinh tế xã hội có hiệu quả, khai thác các tiềm năng KTXH của tỉnh. Tạo điều kiện cho chi nhánh về đầu tư mua sắm các tài sản thiết bị máy móc phục vụ cho hoạt động của chi nhánh đảm bảo tiện ích, an toàn, thuận lợi. Trung ương quan tâm hơn nữa đến công tác đào tạo để nâng cao trình độ, năng lực cho cán bộ thuộc các tỉnh miền núi. 3.2.2.4-Kiến nghị với NHĐT&PT Cao Bằng . Là một chi nhánh của NHĐT&PT Việt Nam, trực tiếp tổ chức hoạt động thanh toán trên địa bàn đề nghị NHĐT&PT Cao Bằng thực hiện một số nội dung sau: - Hiện nay chi nhánh chỉ có một hội sở chính đặt tại phố Xuân Trường thị xã Cao Bằng nên tình hình HĐV cũng như việc sử dụng các dịch vụ thanh toán còn hạn chế. Hơn nữa trên địa bàn tỉnh còn có một NHTM khác là NHNo& PTNT do có lợi thế có các chi nhánh, phòng giao dịch trực thuộc nên các hoạt động có thuận lợi hơn. Đầu năm 2003 NHNo& PTNT tỉnh Cao Bằng đã thực hiện thanh toán biên mậu trực tiếp tại 2 cửa khẩu lớn tại Cao Bằng trong khi đó NHĐT&PT Cao Bằng phải thanh toán thông qua chi nhánh NHĐT&PT Lạng Sơn vì vậy khó có thể giữ được khách hàng. Bởi vậy chi nhánh nên mở rộng quy mô hoạt động, mở thêm các phòng giao dịch, chi nhánh trực thuộc đặc biệt là ở các huyện biên giới có cửa khẩu. - Để nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán cần thường xuyên phát triển nguồn nhân lực, tích cực đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn tin học, ngoại ngữ của cán bộ. Đầu tư thích đáng cho nâng cao cơ sở vật chất và công nghệ ngân hàng. kết luận Công tác thanh toán là một trong những chức năng quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngành ngân hàng và nó sẽ có tác động rất lớn đối với sự tăng trưởng, phát triển của nền kinh tế. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay đang trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì trách nhiệm nặng nề đặt lên vai ngành ngân hàng là phải đổi mới, cải tiến và hoàn thiện công tác thanh toán không dùng tiền mặt. Để đáp ứng được yêu cầu đổi mới của nền kinh tế và nhanh chóng hoà nhập với tiến trình phát triển hung của Thế giới, ngành Ngân hàng nước ta không ngừng mở rộng các dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Trong xu thế đó thì đẩy mạnh công tác thanh toán không dùng tiền mặt và mở rộng tài khoản cá nhân giữ một vai trò quan trọng. Nó đã và đang là nhiệm vụ hàng đầu của ngành Ngân hàng hiện nay. Để thực hiện được nhiệm vụ này, việc cải tiến, đưa ra các công cụ thanh toán linh hoạt, phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế và thực hiện các biện pháp hữu hiệu thu hút khách hàng mà đặc biệt là khách hàng cá nhân tới mở tài khoản và thanh toán không dùng tiền mặt có ý nghĩa quyết định. Với kết quả của bản khoá luận này bản thân em hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ bé kiến thức của mình vào việc giải quyết những khó khăn của thực tiễn đặt ra đặc biệt là góp phần hoàn thiện chế độ TTKDTM trong NHĐT&PT Cao Bằng nói riêng và ở nước ta nói chung, góp phần phát triển xã hội. nhận xét của thủ trưởng cơ quan ................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................. ................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................. ................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................. .................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
File đính kèm:
- BAI 8.doc