Đề tài Tin Sinh học: Tìm hiểu tài liệu về test raven và các gen liên quan đến khả năng trí tuệ

 Ma trận của Raven hoặc Raven của Progressive Matrices là những câu hỏi trắc nghiệm những hiểu biết trừu tượng được Tiến sĩ John C. Raven đưa ra năm 1938. Hầu hết các mục được trình bày trong hình dạng của ma trận 3x3 hoặc 2x2. Cấu trúc ma trận ngày càng khó khăn hơn. Nó yêu cầu bạn nhận ra 1 đoạn mất tích trong từng mục kiểm tra và hoàn thành một mô hình trình bày ở đó.

 

ppt38 trang | Chia sẻ: gaobeo18 | Lượt xem: 1365 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tin Sinh học: Tìm hiểu tài liệu về test raven và các gen liên quan đến khả năng trí tuệ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút TẢI VỀ ở trên
ng ta được  “cấu tạo sở hữu kiến trúc sẵn để có thể học”,  nói theo François Jacob (cùng giải Nobel năm 1965 với Monod).Dĩ nhiên, nếu không có tiềm năng sẵn thì môi trường có thuận lợi mấy cũng không làm gì được. Đồng thời, nếu tạo điều kiện tốt nhất để trẻ phát triển thì đại đa số các em đều có  thể thành công trên lĩnh vực trí tuệ. 	Khi thi thể của nhà vật lý thiên tài Albert Einstein được mổ ra để phân tích vào năm 1955, bộ não của ông khiến người ta thất vọng, bởi hóa ra nó nhỏ hơn đa số não người bình thường chứ không quá to như công chúng vẫn tưởng	Trên thực tế, nhiều nghiên cứu sau đó cho thấy kích cỡ của não hầu như không liên quan tới trí thông minh của con người. Có vẻ như chất lượng của não quan trọng hơn kích thước.	Newscientist cho biết, khả năng giao tiếp giữa các tế bào thần kinh là một yếu tố quan trọng. Martijn van den Heuvel, một nhà thần kinh học của Đại học Utrecht tại Hà Lan, phát hiện ra rằng não của những người cực kỳ thông minh có những mạng lưới tế bào thần kinh hiệu quả hơn so với số đông. Nói cách khác, quá trình truyền thông tin từ một tế bào sang tế bào khác trong não người thông minh trải qua ít “thủ tục” hơn so với trong não người bình thường. 	Một nhân tố quan trọng nữa là màng chất béo bao bọc các dây thần kinh. Màng chất béo này quyết định tốc độ lan truyền của tín hiệu trong não. Paul Thompson – một chuyên gia của Đại học California tại Mỹ, đã chứng minh rằng chất lượng của màng chất béo bao bọc dây thần kinh càng cao thì chỉ số thông minh của con người càng lớn và ngược lại. 	Chúng ta vẫn chưa biết chính xác vai trò của gene đối với trí thông minh. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng chỉ số thông minh phụ thuộc vào gene theo tỷ lệ từ 40 tới 80%. Tỷ lệ đó có thể tăng theo thời gian vì - theo một nghiên cứu được công bố gần đây - khi con người càng già thì vai trò của gene đối với trí thông minh càng lớn. Nhà khoa học Robert Plomin của Đại học King tại Anh – người đã thực hiện nghiên cứu – theo dõi 11.000 cặp song sinh trong nhiều năm. Ông nhận thấy ở tuổi thứ 9, gene đóng góp 40% vào chỉ số thông minh của người. Nhưng khi chúng ta bước vào tuổi 17, tỷ lệ đó tăng lên tới 2/3. Điều đó có ý nghĩa gì? Theo Newscientist, có lẽ gene quyết định cách thức phát triển của não khi con người lớn lên. Nói cách khác, gene có thể giúp chúng ta dự đoán liệu một cá nhân nào đó sẽ chủ động tìm kiếm môi trường thuận lợi cho sự phát triển của não hay không. “Nếu chúng ta được sinh ra để trở thành thiên tài, bản năng sẽ thôi thúc chúng ta tìm kiếm môi trường phù hợp để năng khiếu bẩm sinh của chúng ta có thể phát triển”, Thompson giải thích 	Vào năm 2001, một công trình của Zicher (nhà khoa học chuyên nghiên cứu về Gen) đặc biệt là về "Gen thông minh" ( Gene of intelligence). Qua nhiều số liệu thống kê và việc sử dụng bản đồ gen người công bố năm 2000. Nhóm của ông đã xác nhận có sự tồn tại của gen thông minh và thật kì lạ là nó lại tồn tại chủ yếu trên nhiễm sắc thể giới tính X ( xác định giới tính nữ). Từ nghiên cứu này ông đã giải thích được hàng loạt các vần đề khó khăn :1. Chỉ số IQ của nam và nữ hầu như ngang bằng nhưng phổ thông minh của nam giới lại rộng hơn rất nhiều. Điều này giải thích tại sao có nhiều thiên tài là nam hơn nữ. Và một điều nữa là : nam giới có những người rất thông minh nhưng ngược lại cũng có hàng tá người ngu ngốc nhất. Vì sao ? Nữ ( XX) có một nhiễm sắc thể X mang gen thông minh còn 1 thì thường là không sẽ tác động đến cái còn lại và làm cho nó không có nhiều cơ hội để mà thể hiện tính trạng của mình làm giảm sự thông minh đi. Còn đối với nam (XY) nhiễm sắc thể X và Y không tương tác nên làm cho gen thông minh có cơ hội để mà thể hiện tính trạng của mình  Nam thông minh hơn.2. Nữ giới là "nhân vật quan trọng nhất" trong việc di truyền gen thông minh cho nhân loại . Các bạn hãy thử sử dụng lý thuyết này để giải thích tại sao nhé ?Gen thông minh nằm trên nhiễm sắc thể giới tính X	Đến nay các nhà khoa học đều thống nhất rằng trí thông minh là tổng hợp của nhiều yếu tố, trong đó có di truyền và những tác động từ môi trường. Về mặt di truyền, bác sĩ Horst Hameiste, trưởng nhóm nghiên cứu phát hiện các gen thông minh nằm rải rác trên chuỗi ADN, nhưng có tới 2/3 tập trung ở nhiễm sắc thể giới tính X. Như vậy, trong khi người cha chỉ có thể truyền cho con tính cách thì người mẹ lại truyền cho con toàn bộ trí tuệ. Phát hiện này giải thích vì sao các vĩ nhân đều có những bà mẹ rất thông minh.Gen, đầu to và độ thông minh	Theo các nhà khoa học Úc và Anh, những gen được cho là giúp con người phát triển bộ não to không đóng vai trò quyết định người đó thông minh như thế nào.	Nghiên cứu thứ nhất do Viện nghiên cứu y học Queensland, Australia, thực hiện lần đầu tiên, tìm hiểu mối liên hệ giữa gen, kích cỡ sọ và trí thông minh trong dân số nói chung, cho thấy một bộ não to không hẳn đóng vai trò quyết định người sở hữu nó thông minh như thế nào.	Họ tìm thấy những ai đạt điểm cao trong cuộc kiểm tra trí tuệ không nhất thiết sở hữu những gen tạo nên chiếc đầu to và vốn được cho là tạo trí thông minh. Và những người sở hữu gen tạo thông minh không hẳn là người thông minh nhất hay là người có não to nhất.	Các nhà nghiên cứu đã kiểm tra 4.395 thiếu niên về kích cỡ hộp sọ và trí thông minh. Họ tìm hiểu các gen ASPM, MCPH1 và CDK5RAP2 - kiểm soát kích cỡ bộ não. Khi bị đột biến, những gen này tạo ra bộ não nhỏ bất thường.	Mọi người đều mang 3 gen trên, nhưng một số người mang những phiên bản ít tiến hoá hơn, còn những người khác lại mang gen tiến hoá hơn. Một số người mang mỗi gen một phiên bản.	Các nhà nghiên cứu đã phỏng đoán rằng những người có phiên bản gen tiến hoá hơn thì sẽ thông minh hơn và đầu óc to hơn, nhưng sự thật lại không phải như vậy.	Giáo sư Colin Groves, chuyên gia tiến hoá loài người tại Đại học quốc gia Australia, cho biết não người bắt đầu to ra kể từ tổ tiên cổ đại là Homo habilis. Nhưng đến giờ bộ não của chúng ta đã dừng tăng trưởng và thực tế thu gọn lại.	Trong khi kích thước bộ não có liên quan tới trí thông minh giữa các loài, nhưng nó không phải là trường hợp trong cùng một loài, Groves nói. Và bất chấp sự phát triển của công nghệ tiên tiến, không có bằng chứng gì cho thấy loài người đã thông minh hơn trong 50.000 năm qua.Một nghiên cứu mới được thực hiện bởi các nhà khoa học người Anh dựa trên nguồn gốc tiến hóa của não cũng đưa ra ý kiến rằng một bộ óc lớn không làm cho bạn thông minh hơn.	Tờ Daily Telegraph đưa tin: những nhà nghiên cứu thuộc Viện nghiên cứu Wellcome Trust Sanger Institute đã phát hiện ra rằng trong suốt thời gian tiến hóa, sự xử lý phân tử của những xung động thần kinh ngày càng tinh vi hơn, đặc biệt việc cung cấp nhiều kết nối hơn trong não, cho phép phát triển với những hành vi phức tạp hơn (chứ không phải vì chúng lớn hơn mà thông minh hơn).	Bản nghiên cứu được thực hiện bởi Seth Grant, người đứng đầu chương trình nhận thức về gen tại viện, cùng với những cộng sự của ông tại hai trường đại học Ednburgh và Keele. Ông đã nghi ngờ những kết luận trước đây cho rằng các thành phần cấu thành của hợp chất protein trong những kết nối của dây thần kinh (liên hợp thần kinh) là tương tự như nhau ở hầu hết các loài động vật, và sự tăng số lượng những kết nối này ở các loài động vật lớn cho phép chúng có những suy nghĩ phức tạp hơn.	Các nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu với 600 hợp chất protein có trong những liên hợp thần kinh của loài động vật có vú. Và họ đã tìm ra những sự khác nhau ấn tượng trong các hợp chất protein của những liên hợp thần kinh giữa các loài khác nhau, với chỉ 50% trong số này, được tìm ra ở những liên hợp thần kinh của loài động vật không xương sống, và khoảng 25% là trong những động vật đơn tế bào, những loài không có não bộ.	“Số lượng và sự phức tạp của các hợp chất Protein trong liên hợp thần kinh lúc đầu đã bị đập tan khi những động vật đa tế bào xuất hiện khoảng một vài tỷ năm trước đây. Một đợt đột biến thứ hai đã nảy sinh với sự xuất hiện của những động vật có xương sống, có lẽ là khoảng 500 triệu năm trước," Grant nói.	Kể từ sự tiến hóa của các hợp chất, những khớp thần kinh “lớn” đã xuất hiện trước sự xuất hiện của những bộ não lớn, những sự kiện tiến hóa phân tử này là cần thiết cho việc tiến hóa của não con người, ông khẳng định.	Ông nói, sự tiến hóa phân tử của các khớp thần kinh giống như sự tiến hóa của những con chip máy tính, sự phức tạp càng tăng lên càng cho chúng nhiều năng lượng.	Những liên hợp thần kinh là những chỗ nối giữa những dây thần kinh, nơi mà những tín hiệu điện tử từ một tế bào được truyền qua một loạt những sự chuyển đổi hóa sinh đến các nơi kế tiếp. Tuy nhiên, những liên hợp thần kinh không phải là những mối nối đơn giản. Còn có những bộ xử lý mini sẽ chuyển cho hệ thống dây thần kinh khả năng tiếp thu kiến thức, rèn luyện kỹ năng và năng lực trí tuệ của con người.Tồn tại gen làm hạn chế sự thông minhTrái với giả thuyết trước đây của một số nhà khoa học rằng: tố chất thông minh hay kém thông minh của mỗi cá thể không phụ thuộc vào gen. 	Một nghiên cứu mới đây của các nhà di truyền học thuộc Trường đại học dược Emory - Mỹ vừa chỉ ra rằng: có tồn tại những loại gen có tác động kìm hãm sự thông minh của con người và các loài động vật. Kết luận này được rút ra sau khi các nhà khoa học nghiên cứu gen RGS14 (gen được cho là qui định tính chậm chạp và kém thông minh ở những con chuột thí nghiệm). Sau khi loại bỏ RGS14 ra khỏi hệ gen của những con chuột bị coi là khù khờ này, chúng tỏ ra nhanh nhẹn và thông minh hơn bình thường. Như vậy, rõ ràng là có sự tồn tại loại gen khiến cho não của các loài vật bị hạn chế hoạt động tại một vài vùng nào đó và khiến cho chúng kém thông minh, năng động hơn.	Những con chuột bị loại bỏ gen RGS14 có khả năng ghi nhớ tốt hơn. Lý giải cho điều này, các nhà khoa học cho biết: sau khi loại RGS14, vùng não thuộc não trung tâm hippocampus có tên gọi CA2 được giải phóng và hoạt động tích cực, giúp tăng cường khả năng ghi nhớ và tiếp nhận thông tin. RGS14 cũng được tìm thấy ở người và được xác định là loại gen làm hạn chế sự nhanh nhẹn và khả năng ghi nhớ của con người.

File đính kèm:

  • pptTIN SINH HOC P8.ppt
Bài giảng liên quan