Giáo trình học thanh nhạc - 7 bài tập giúp hát tốt
BÀI 1
KHÁI NIỆM VỀ CA HÁT
I. NHẬN XÉT CHUNG
1. Ca hát là bộ môn nghệ thuật phối hợp giữa ngôn ngữ và âm nhạc, gọi là thanh nhạc, nó khác với khí nhạc làloại âm nhạc viết riêng cho nhạc cụ diễn tấu. Ai trong chúng ta cũng đã từng hát, hoặc ít nhất cũng đã từng nghengười khác hát. Một người hát goi là đơn ca, hai ba người hát gọi là song ca, tam ca . nhiều người cùng hátmột lời ca, một giai điệu là đồng ca. Còn nếu hát theo nhiều bè, nhiều giai điệu khác nhau gọi là hợp ca (Hợpxướng).
2. Chắc tiếng hát đã có rất sớm cùng với tiếng nói của con người phát xuất từ tôn giáo, lao động và giải trí.
Nhưng nguồn gốc sâu xa nhất của tiếng hát là do nhu cầu muốn diễn đạt tình ý của mình một cách có hiệu quảhơn trên tâm hồn người nghe : con người lúc đầu chủ yếu dùng ngôn ngữ để thông đạt cho nhau những ý nghĩ,tình cảm của mình. Dần dà con người tìm cách diễn đạt tình ý một cách khéo léo hơn, tài tình hơn, tức là cónghệ thuật hơn qua các bài văn, bài thơ. Và yếu tố âm nhạc, tiềm ẩn trong câu nói, trong cầu thơ, đá càng ngàycàng rõ rệt hơn trong các kiểu nói diễn cảm, các bài đọc trang trọng (như đọc diễn văn), các câu rao hàng, câungâm thơ. Nó xuất hiện rõ nét trong các câu hò nhất là trong các bài hát nhằm tăng sức diễn cảm tối đa cho lờinói. Thanh nhạc đã ra đời dựa trên ngôn ngữ của từng dân tộc, và nó càng ngày càng được nâng cao cùng vớicác bộ môn nghệ thuật khác như văn thơ, hội hoạ, sân khấu, vũ nhạc . Do đó mỗi dân tộc ít nhiều đều cónhững kinh nghiệm thanh nhạc riêng mình. Vấn đề hiện này của người học thanh nhạc là làm sao học được kinhnghiệm hay của các dân tộc khác mà không bỏ mất kinh nghiệm quý báu của cha ông để lại
âm này chỉ đi sau 4 nguyên âm hàng trước E - Ê - I - YÊ : enh ech, ênh êch, inh ich, uyênh uyêch (Thí dụ : vanh vách, đènh đẹch, vênh vếch, thình thịch, huỳnh huỵch, huyênh, khuyếch ...). Riêng vần ENH ECH, chính tả ghi lầm là ANH ACH. Khi phân tích ngữ âm cũng như khi phát âm, gặp A trong “anh ach” phải đọc như E. - Đóng bằng cuống lưỡi đưa lên vòm mềm (hàm ếch mềm), nhờ các phụ âm NG - C, (hơi nâng cằm dưới mà không đóng môi, không khép răng, khẩu hình bên ngoài vẫn mở) khi NG - C đi sau các âm hàng giữa (a-ă-ơ-â- ư), các âm phức (iê, ươ, uô), các âm dài (oo, ôô) và âm hàng trước rộng (e). - Đóng bằng cuống lưỡi và hai môi nhờ NG - C khi chúng đi sau các âm hàng sau o - ô - u : ong oc, ông óc, ung uc ... Cần phải ộc tiếng để tạo khoảng trống trong miệng bằng cách hơi phồng hai má. Thí dụ : ròng rọc, phong phóc, xồng xộc, hùng hục ... c. Các nguyên tắc xử lý các vần đóng : - Nói chúng, tất cả các vần đóng bằng bán âm hay phụ âm, đều có thể thu đuôi hoặc đóng sớm khi không cần phải ngân vang, hoặc khi hát những bài dân ca hay bài theo phong cách dân ca. - Tuy nhiên, có một số vần đóng buộc phải đóng sớm mới rõ lời, phù hợp với đòi hỏi của ngữ âm, dù hát ở cao độ hay cường độ nào cũng vậy. Đó là : 1. Các vần có âm chính là âm ngắn (ă, â) : ăy, ây, ău, âu, âm âp, ăm ăp, ăn ăt, ân ât, ăng, ăc, âng âc. 2. Các vần có âm chính là âm hẹp (i, ư, u) : iu, ưi, ưu, ui, im - ip, um - up, in - it, ưn - ưt, un - ut, ưng - ưc, ung - uc. 3. Các vần có âm chính là âm hàng trước (e - ê - i - yê) đi với NH - CH : enh ech, ênh êch, inh ich, uynh uych, uyênh uyêch, (khi gặp anh ách là phải đọc như enh ech : đóng sớm). Phan Minh Nghóa – söu taàm 26 4. Các vần có âm chính là âm hàng sau (o - ô - ư) đi với NG - C : ong oc, ông ôc, ung uc : đóng sớm bằng phương thức ộc tiếng. - Các vần đóng còn lại thì có thể đóng từ từ, nhất là khi cần vang tiếng (dấu nhạc ở âm khu cao cần cường độ lớn). Đóng từ từ là khẩu hình từ độ mở nguyên thuỷ phải dần dần thu đuôi hoặc đóng tiếng bằng cách khép môi, nâng đầu lưỡi, nâng mặt lưỡi hoặc nâng cuống lưỡi từ từ theo thời gian cho phép. Không đứng khựng lại, không dồn từng nấc, mà phải đóng liên tục cho tới khi vần được đóng hẳn ở cuối chỗ phải ngân. Trong phần xử lý cụ thể, ca viên phải định được mình phải đóng hẳn ở dấu nhạc nào, ở phần phách nào. Đây là một kỹ thuật đóng khá khó, cần phải tập luyện nhiều mới nhuyễn và mềm mại được. Thí dụ 3 : - Êm dịu khôn xiết (bài Ôi Thần Linh Chúa) - Đàn hát (réo rắt tiếng hát) ... Đến xem (nơi hàng Bê-lem) - Trông về hang đá Bê-lem ... Người đem ân phúc - Mẹ toả hương thơm ngát (bài Mẹ triển dương của Vinh Hạnh) - Thánh thánh thánh ! - Bóng ngã trăng chênh ... -Đêm đông lạnh lẽo ... Muôn dân ca tụng ... Hoàn vũ khâm sùng ... BẢNG TÓM KẾT CÁC VẦN BUỘC PHẢI ĐÓNG SỚM d. Mấy điểm cần lưu ý : -Các âm cuối ít nhiều đều ảnh hưởng lên độ mở của các âm chính đi trước nó, bằng cách rút ngắn hoặc thu nhỏ lại. -Các phụ âm tắc P - T - CH - C tạo nên những vần trắc chỉ đi với dấu nặng và dấu sắc : tấp nập, sát phạt, khúc nhạc, huých, hịch. Người soạn nhạc nên tránh những vần tắc, nhất là vần có dấu sắc với âm chính là các âm ngắn (ă, â), âm hẹp (i, u, ư) ... mà lại phải ngân ở âm vực cao, cần cường độ mạnh như : -Trong lối hát cổ truyền của dân tộc, cha ông chúng ta thường dùng các âm i, ư, ơ để ngân nga sau khi đã đọc dứt các vần, kể cả vần mở cũng vậy, hoặc i hi, ư hư, ơ hơ, có khi dùng cả âm a để mở vần. * Trong dân ca : + Một bầy tang tình con nhện (ơ) ấy mấy giăng tơ. (Trống cơm). Phan Minh Nghóa – söu taàm 27 + Voi giấy ơi a voi giấy (ơ) tít mù nó mới lại vòng quanh (ơ) ... (Đèn cù). + Chung quanh bên vàng mây vàng (ư) ... (Trống quân). + Nhất quế nhị lan nhất (ư) xinh (i i), nhất xinh nhất lịch (i i I) ... (Bài nhất quế nhị lan, Quan họ Bắc Ninh). * Trong Chèo thường ngân bằng âm i, trong Tuồng ngân bằng ư hư ... * Trong Cổ giáo nhạc Công giáo cũng dùng âm i để ngân nga : + Mấy lời vạn phục (i) mấy ngành (a) mấy ngành Mân côi (i i i i) (Tiến hoa mùa thương). + Tôi là Tô (i) mà. Tô (i) ma ... ở trong là trong xác thịt (i i i i) tựa loài (a la) loài tính (a la) thiêng. (Thánh Tô- ma). Đây chỉ dẫn chứng vài nét thô sơ của lối hát cổ truyền. Người ca hát chuyên nghiệp còn cần đi sâu nghiên cứu các lối hát khác nhau của tổ tiên để áp dụng vào thanh nhạc Việt Nam. III. XỬ LÝ THANH ĐIỆU 1. Trong phân tích ngữ âm, người ta chỉ phân biệt âm vực CAO - THẤP. Nhưng trong tiếng nói và tiếng hát, thì tối thiểu phải phân biệt 3 mức độ cao thấp tương ứng với : - Sắc, ngã (âm vực cao) - Ngang (âm vực trung) - Huyền, nặng, hỏi (âm vực thấp) 2. Và các thanh gãy Ngã, Hỏi đều phải dùng từ 2 dấu nhạc trở lên có cao độ khác nhau thì hát lên nghe mới rõ lời rõ ý. Do đó, trong thanh nhạc gọi các thanh gãy là thanh kép. Các hư từ “sẽ, đã, hãy, của...” không quan trọng cho ý chính của câu, có thể dùng không kép, nhất là khi nét nhạc đi nhanh ; còn các chữ quan trọng thì phải kép cẩn thận. Thí dụ : 3.Thanh Nặng, tuy không phải là thanh gãy, nhưng là thanh tắc họng khác với thanh Huyền cũng thuộc âm vực thấp nhưng không tắc họng : Vì thế, muốn cho thanh Nặng rõ ràng phân biệt với thanh Huyền, thì cũng nên kép thanh Nặng. Nếu không kép bằng 2 dấu nhạc có cao độ khác nhau, thì ít nhất bằng 2 dấu cùng cao độ : Thí dụ : -Một bầy tang tình con sít (ấy mấy) lội, lội, lội sông (Trống cơm) -Thương con như gà mẹ, ủ ấp con dưới cánh (Tán tạng hồng ân) -Khớp con ngựa ngựa ô ... anh tra khớp bạc, lục lạc đồng đen ... -Chớ quên lời mẹ(e) 4.Có khi, để có sự thuần nhất trong lối viết, chúng ta cũng có thể kép cả dấu sắc, huyền, ngang (Thí dụ : “Thương tôi từ thuở đời đời"). Đó thật ra là cách ngân nga ngắn, thường thấy, nhưng đừng quá cầu kỳ mà làm sai dấu giọng, nhưng đừng quá cầu kỳ mà làm sai dấu giọng, như : 5.Trong giọng nói, giọng đọc của một người, thì cao độ tương đối giữa các thanh điệu thường giữ một vị trí nhất định từ đầu tới cuối, trừ khi ta thay đổi sắc thái biểu cảm như ngạc nhiên, sửng sốt, kêu gọi, nhấn mạnh ... thì giọng nói cao hơn ; hoặc khi buồn rầu, đau khổ, thủ thỉ ... thì giọng nói thấp hơn, nhưng lúc đó toàn bộ hệ thống cao độ thanh điệu cũng được nâng lên hạ xuống. 6.Trong giọng hát, toàn bộ hệ thống thanh điệu có thể nâng lên rất cao hoặc hạ xuống khá thấp : “Chúa sinh ra đời, Chúa sinh ra đời” (Hang Bê-lem), nhưng phải giữ tương quan cách biệt giữa 3 âm vực CAO - TRUNG - THẤP trong từng cụm từ. 7. Người Ca trưởng, khi ý thức được tầm quan trọng của thanh điệu, có thể làm cho “Rõ lời đẹp tiếng” hơn bằng cách : a. Thêm những dấu nhạc phụ như dấu nhấn, dấu thêu thùa, để kép các thanh HỎI và NGÃ. b. Hát rõ dấu NẶNG bằng cách thêm dấu nhấn cùng cao độ. Thí dụ a : Thí dụ b : c. Phải xem lại các bè hát trẹo dấu : Nếu không có cách nào cứu vãn được, thì nên viết lại hoặc nhờ người viết Phan Minh Nghóa – söu taàm 28 lại các bè trẹo dấu, hoặc chỉ hát một bè chính nếu nhu cầu phụng vụ bó buộc, các bè khác để cho đàn chơi, hoặc ngậm miệng ngân. Không nên vì ham nhiều bè mà làm tiếng hát trẹo dấu, không còn giữ được bản sắc ngôn ngữ dân tộc. TÓM LẠI Chúng ta vừa tìm hiểu cách xử lý ngôn ngữ Việt Nam trong CA HÁT, bằng cách xem xét qua cách xử lý các yếu tố ngữ âm của tiếng Việt : Phụ âm đầu, Vần và Thanh Điệu. Chúng ta đã thấy, như lời của tác giả Vĩnh Long, rằng : “Tiếng nói của chúng ta có rất nhiều nét riêng biệt, mà rõ nhất là tính độc lập cao của âm tiết với kết cấu phức tạp của nó, là sự kết hợp hợp lý và phong phú giữa âm chính với âm đệm và âm cuối với tính khép âm tiết, tạo âm mũi và cắt đứt tiếng thanh của nó, là việc dùng nhiều thanh điệu với độ cao khác nhau, đường nét phức tạp và có hiện tượng tắc họng ... Để xử lý được tốt những đặc điểm này, chúng ta phải đứng hẳn, đứng vững trên tiếng nói dân tộc mà tìm tòi, sáng tạo những kỹ thuật ca hát thích hợp” Thật vậy, muốn thông đạt nội dung tri thức, chỉ cần đến nói, đến đọc là đủ. Nhưng nếu muốn thông đạt cả nội dung nghệ thuật nhằm đánh động không phải chỉ trên lý trí mà nhất là trên cả con tim, trên tình cảm, trên tấm lòng người nghe thì phải cần đến Ngâm, Hò, Ca, Hát. Mà đối tượng của ca hát ở đây là con người Việt Nam, nên muốn đi sâu vào lòng người Việt Nam, rất cần phải ca hát cho có bản sắc Việt Nam, nghĩa là ca hát sao mà vẫn tôn trọng và phát huy những đặc điểm của ngôn ngữ dân tộc. Muốn được vậy, người sáng tác phải biết khéo lựa lời, người ca hát phải biết phát huy tiếng hát ngân vang trên cơ sở ngôn ngữ dân tộc, bảo đảm RÕ LỜI, ĐẸP TIẾNG cho lời ca tiếng hát của mình dễ đi sâu vào lòng người Việt Nam, đồng thời góp phần làm giàu thêm cho thế giới âm thanh nói chung. PHẦN THỰC TẬP 1. Tập phân tích tiếp các loại vần và ghi bản phân tích ở bài VI 2. Tập hát bài Khúc nhạc cảm tạ 3. Tập xử lý cụ thể các vần của bài Khúc nhạc cảm tạ dưới đây CÁC CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Bạn hiểu thế nào về thuật ngữ “Tròn vành rõ chữ” ? 2. Cho biết nguyên nhân làm cho lời ca không rõ ràng ? 3. Xử lý phụ âm đầu như thế nào ? Có điều gì cần sửa chữa ? 4. Xử lý vần mở bằng nguyên âm đơn và nguyên âm phức khác nhau thế nào ? 5. Khẩu hình các nguyên âm A, Ê, Ô. 6. Vị trí cộng minh của các nguyên âm đơn ? 7. Xử lý âm đệm ra sao ? 8. Vần đóng có mấy loại chính ? Khác nhau thế nào ? 9. Xử lý “thu đuôi” có mấy cách ? 10. Xử lý các vần đóng bằng phụ âm như thế nào ? 11. Những loại vần nào bó buộc phải đóng sớm ? Tại sao ? 12. Phụ âm tắc là phụ âm nào ? Đặc tính ra sao ? 13. Trong lối hát cổ truyền, cha ông ta thường xử lý các vần đóng như thế nào ? 14. Các thanh kép là gì ? Gồm những thanh nào ? 15. Người ca trưởng cũng như ca viên có thể làm gì cho “rõ lời đẹp tiếng” hơn khi xử lý các thanh điệu? 16. Hát trẹo dấu (sai dấu giọng) tai hại như thế nào ? Có nên tiếp tục không ? 17. Tại sao “chúng ta phải đứng hẳn, đứng vững trên tiếng nói dân tộc mà tìm tòi, sáng tạo những kỹ thuật ca hát thích hợp” ?
File đính kèm:
- GIÁO TRÌNH HỌC THANH NHẠC - 7 BÀI TẬP GIÚP HÁT TỐT.pdf