Giáo trình Mạng máy tính

MỤC LỤC

Phân loại mạng máy tính theo phạm vi địa lý . 3

Hệ điều hành mạng – NOS (Network Operating System). 16

pdf20 trang | Chia sẻ: hienduc166 | Lượt xem: 573 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giáo trình Mạng máy tính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút TẢI VỀ ở trên
ó tài liệu gọi là HUB sắp xếp) 
• Hub modun (modular hub) 
MẠNG MÁY TÍNH (COMPUTER NETWORKS) 15 
Modular hub rất phổ biến cho các hệ thống mạng vì nó có thể dễ dàng 
mở rộng và luôn có chức nǎng quản lý, modular có từ 4 đến 14 khe 
cắm, có thể lắp thêm các modun Ethernet 10BASET. 
Stackable hub là lý tưởng cho những cơ quan muốn đầu tư tối thiểu ban 
đầu nhưng lại có kế hoạch phát triển LAN sau này. 
Chú ý: Uỷ ban kỹ thuật điện tử (IEEE) đề nghị dùng các tên sau đây để 
chỉ 3 loại dây cáp dùng với mạng Ethernet chuẩn 802.3. 
• Dây cáp đồng trục sợi to (thick coax) thì gọi là 10BASE5 (Tốc độ 10 
Mbps, tần số cơ sở, khoảng cách tối đa 500m). 
• Dây cáp đồng trục sợi nhỏ (thin coax) gọi là 10BASE2 (Tốc độ 10 
Mbps, tần số cơ sở, khoảng cách tối đa 200m). 
• Dây cáp đôi xoắn không vỏ bọc (twisted pair) gọi là 10BASET (Tốc 
độ 10 Mbps, tần số cơ sở, sử dụng cáp sợi xoắn). 
• Dây cáp quang (Fiber Optic Inter-Repeater Link) gọi là FOIRL 
Liên mạng (internetworking) 
Việc kết nối các LAN riêng lẻ thành một liên mạng chung được gọi là 
Internetworking. Internetworking sử dụng ba công cụ chính là: bridge, 
router và switch. 
Cầu nối (bridge): 
Là cầu nối hai hoặc nhiều đoạn (segment) của một mạng. Theo mô hình 
OSI thì bridge thuộc mức 2. Bridge sẽ lọc những gói dữ liệu để gửi đi 
(hay không gửi) cho đoạn nối, hoặc gửi trả lại nơi xuất phát. Các bridge 
cũng thường được dùng để phân chia một mạng lớn thành hai mạng nhỏ 
nhằm làm tǎng tốc độ. Mặc dầu ít chức nǎng hơn router, nhưng bridge 
cũng được dùng phổ biến. 
Bộ dẫn đường (router) 
Chức nǎng cơ bản của router là gửi đi các gói dữ liệu dựa trên địa chỉ 
phân lớp của mạng và cung cấp các dịch vụ như bảo mật, quản lý lưu 
thông... 
Giống như bridge, router là một thiết bị siêu thông minh đối với các 
mạng thực sự lớn. router biết địa chỉ của tất cả các máy tính ở từng phía 
MẠNG MÁY TÍNH (COMPUTER NETWORKS) 16 
và có thể chuyển các thông điệp cho phù hợp. Chúng còn phân đường-
định truyền để gửi từng thông điệp có hiệu quả. 
Theo mô hình OSI thì chức nǎng của router thuộc mức 3, cung cấp thiết 
bị với thông tin chứa trong các header của giao thức, giúp cho việc xử 
lý các gói dữ liệu thông minh. 
Dựa trên những giao thức, router cung cấp dịch vụ mà trong đó mỗi 
packet dữ liệu được đọc và chuyển đến đích một cách độc lập. 
Khi số kết nối tǎng thêm, mạng theo dạng router trở nên kém hiệu quả 
và cần suy nghĩ đến sự thay đổi. 
Bộ chuyển mạch (switch) 
Chức nǎng chính của switch là cùng một lúc duy trì nhiều cầu nối giữa 
các thiết bị mạng bằng cách dựa vào một loại đường truyền xương sống 
(backbone) nội tại tốc độ cao. Switch có nhiều cổng, mỗi cổng có thể hỗ 
trợ toàn bộ Ethernet LAN hoặc Token Ring. 
Bộ chuyển mạch kết nối một số LAN riêng biệt và cung cấp khả nǎng 
lọc gói dữ liệu giữa chúng. 
Các switch là loại thiết bị mạng mới, nhiều người cho rằng, nó sẽ trở 
nên phổ biến nhất vì nó là bước đầu tiên trên con đường chuyển sang 
chế độ truyền không đồng bộ ATM. 
HỆ ĐIỀU HÀNH MẠNG – NOS 
(NETWORK OPERATING SYSTEM) 
Cùng với sự nghiên cứu và phát triển mạng máy tính, hệ điều hành 
mạng đã được nhiều công ty đầu tư nghiên cứu và đã công bố nhiều 
phần mềm quản lý và điều hành mạng có hiệu quả như: NetWare của 
công ty NOVELL, LAN Manager của Microsoft dùng cho các máy 
server chạy hệ điều hành OS/2, LAN server của IBM (gần như đồng 
nhất với LAN Manager), Vines của Banyan Systems là hệ điều hành 
mạng dùng cho server chạy hệ điều hành UNIX, Promise LAN của 
Mises Computer chạy trên card điều hợp mạng độc quyền, Widows for 
Workgroups của Microsoft, LANtastic của Artisoft, NetWare Lite của 
Novell,.... 
MẠNG MÁY TÍNH (COMPUTER NETWORKS) 17 
Một trong những sự lựa chọn cơ bản mà ta phải quyết định trước là hệ 
điều hành mạng nào sẽ làm nền tảng cho mạng của ta, việc lựa chọn tuỳ 
thuộc vào kích cỡ của mạng hiện tại và sự phát triển trong tương lai, còn 
tuỳ thuộc vào những ưu điểm và nhược điểm của từng hệ điều hành. 
Một số hệ điều hành mạng phổ biến hiện nay: 
• Hệ điều hành mạng UNIX: Đây là hệ điều hành do các nhà khoa học 
xây dựng và được dùng rất phổ biến trong giới khoa học, giáo dục. Hệ 
điều hành mạng UNIX là hệ điều hành đa nhiệm, đa người sử dụng, 
phục vụ cho truyền thông tốt. Nhược điểm của nó là hiện nay có nhiều 
Version khác nhau, không thống nhất gây khó khǎn cho người sử 
dụng. Ngoài ra hệ điều hành này khá phức tạp lại đòi hỏi cấu hình 
máy mạnh (trước đây chạy trên máy mini, gần đây có SCO UNIX 
chạy trên máy vi tính với cấu hình mạnh). 
• Hệ điều hành mạng Windows NT: Đây là hệ điều hành của hãng 
Microsoft, cũng là hệ điều hành đa nhiệm, đa người sử dụng. Đặc 
điểm của nó là tương đối dễ sử dụng, hỗ trợ mạnh cho phần mềm 
WINDOWS. Do hãng Microsoft là hãng phần mềm lớn nhất thế giới 
hiện nay, hệ điều hành này có khả nǎng sẽ được ngày càng phổ biến 
rộng rãi. Ngoài ra, Windows NT có thể liên kết tốt với máy chủ Novell 
Netware. Tuy nhiên, để chạy có hiệu quả, Windows NT cũng đòi hỏi 
cấu hình máy tương đối mạnh. 
• Hệ điều hành mạng Windows for Worrkgroup: Đây là hệ điều hành 
mạng ngang hàng nhỏ, cho phép một nhóm người làm việc (khoảng 3-
4 người) dùng chung ổ đĩa trên máy của nhau, dùng chung máy in 
nhưng không cho phép chạy chung một ứng dụng. Hệ dễ dàng cài đặt 
và cũng khá phổ biến. 
Hệ điều hành mạng NetWare của Novell: Đây là hệ điều hành phổ biến nhất 
hiện nay ở nước ta và trên thế giới trong thời gian cuối, nó có thể dùng cho 
các mạng nhỏ (khoảng từ 5-25 máy tính) và cũng có thể dùng cho các mạng 
lớn gồm hàng trǎm máy tính. Trong những nǎm qua, Novell đã cho ra nhiều 
phiên bản của Netware: Netware 2.2, 3.11. 4.0 và hiện có 4.1. Netware là 
một hệ điều hành mạng cục bộ dùng cho các máy vi tính theo chuẩn của 
IBM hay các máy tính Apple Macintosh, chạy hệ điều hành MS-DOS hoặc 
OS/2. 
Hệ điều hành này tương đối gọn nhẹ, dễ cài đặt (máy chủ chỉ cần thậm chí 
MẠNG MÁY TÍNH (COMPUTER NETWORKS) 18 
AT386) do đó phù hợp với hoàn cảnh trang thiết bị hiện tại của nước ta. 
Ngoài ra, vì là một phần mềm phổ biến nên Novell Netware được các nhà 
sản xuất phần mềm khác hỗ trợ (theo nghĩa các phân mềm do các hãng phần 
mềm lớn trên thế giới làm đều có thể chạy tốt trên hệ điều hành mạng này). 
Các Phương tiện Kết nối mạng liên khu vực (WAN) 
Bên cạnh phương pháp sử dụng đường điện thoại thuê bao để kết nối các 
mạng cục bộ hoặc mạng khu vực với nhau hoặc kết nối vào Internet, có một 
số phương pháp khác: 
• Đường thuê bao (leased line). Đây là phương pháp cũ nhất, là 
phương pháp truyền thống nhất cho sự nối kết vĩnh cửu. Bạn thuê 
đường dây từ công ty điện thoại (trực tiếp hoặc qua nhà cung cấp dịch 
vụ). Bạn cần phải cài đặt một "Chanel Service Unit" (CSU) để nối đến 
mạng T, và một "Digital Service Unit" (DSU) để nối đến mạng chủ 
(primary) hoặc giao diện mạng. 
• ISDN (Integrated Service Digital Nework). Sử dụng đường điện 
thoại số thay vì đường tương tự. Do ISDN là mạng dùng tín hiệu số, 
bạn không phải dùng một modem để nối với đường dây mà thay vào 
đó bạn phải dùng một thiết bị gọi là "codec" với modem có khả nǎng 
chạy ở 14.4 kbit/s. ISDN thích hợp cho cả hai trường hợp cá nhân và 
tổ chức. Các tổ chức có thể quan tâm hơn đến ISDN có khả nǎng cao 
hơn ("primary" ISDN) với tốc độ tổng cộng bằng tốc độ 1.544 Mbit/s 
của đường T1. Cước phí khi sử dụng ISDN được tính theo thời gian, 
một số trường hợp tính theo lượng dữ liệu được truyền đi và một số 
thì tính theo cả hai. 
• CATV link. Công ty dẫn cáp trong khu vực của bạn có thể cho bạn 
thuê một "chỗ" trên đường cáp của họ với giá hấp dẫn hơn với đường 
điện thoại. Cần phải biết những thiết bị gì cần cho hệ thống của mình 
và độ rộng của dải mà bạn sẽ được cung cấp là bao nhiêu. Cũng như 
việc đóng góp chi phí với những khách hàng khác cho kênh liên lạc đó 
là như thế nào. Một dạng kỳ lạ hơn được đưa ra với tên gọi là mạng 
"lai" ("hybrid" Network), với một kênh CATV được sử dụng để lưu 
thông theo một hướng và một đường ISDN hoặc gọi số sử dụng cho 
đường trở lại. Nếu muốn cung cấp thông tin trên Internet, bạn phải 
xác định chắc chắn rằng "kênh ngược" của bạn đủ khả nǎng phục vụ 
cho nhu cầu thông tin của khách hàng của bạn. 
MẠNG MÁY TÍNH (COMPUTER NETWORKS) 19 
• Frame relay. Frame relay "uyển chuyển" hơn đường thuê bao. Khách 
hàng thuê đường Frame relay có thể mua một dịch vụ có mức độ xác 
định - một "tốc độ thông tin uỷ thác" ("Committed Information Rale" - 
CIR). Nếu như nhu cầu của bạn trên mạng là rất "bột phát" (burty), 
hay người sử dụng của bạn có nhu cầu cao trên đường liên lạc trong 
suốt một khoảng thời gian xác định trong ngày, và có ít hoặc không có 
nhu cầu vào ban đêm - Frame relay có thể sẽ kinh tế hơn là thuê hoàn 
toàn một đường T1 (hoặc T3). Nhà cung cấp dịch vụ của bạn có thể 
đưa ra một phương pháp tương tự như là phương pháp thay thế đó là 
Switched Multimegabit Data Service. 
• Chế độ truyền không đồng bộ (Asynchoronous Trangfer Mode - 
ATM). ATM là một phương pháp tương đối mới đầu tiên báo hiệu 
cùng một kỹ thuật cho mạng cục bộ và liên khu vực. ATM thích hợp 
cho real-time multimedia song song với truyền dữ liệu truyền thống. 
ATM hứa hẹn sẽ trở thành một phần lớn của mạng tương lai. 
• Đường vi sóng (Microware links). Nếu cần kết nối vĩnh viễn đến 
nhà cung cấp dịch vụ nhưng lại thấy rằng đường thuê bao hay những 
lựa chọn khác là quá đắt, bạn sẽ thấy microware như là một lựa chọn 
thích hợp. Bạn không cần trả quá đắt cho cách này của microware, tuy 
nhiên bạn cần phải đầu tư nhiều tiền hơn vào lúc đầu, và bạn sẽ gặp 
một số rủi ro như tốc độ truyền đến mạng của bạn quá nhanh. 
• Đường vệ tinh (satellite links). Nếu bạn muốn được chuyển một 
lượng lớn dữ liệu đặc biệt là từ những địa điểm từ xa thì đường vệ tinh 
là câu trả lời. Tầm hoạt động của những vệ tinh cùng vị trí địa lý với 
trái đất cũng tạo ra một sự chậm trễ (hoặc "bị che dấu") mà những 
người sử dụng Telnet có thể cảm nhận được. 

File đính kèm:

  • pdfMang_may_tinh_tieng_viet.pdf