Lịch sử Virut - Máy tính trên thế giới
1949. Lý thuyết đầu tiên về các chương trình tự sao chép ra đời.
1981. Apple II là những virus đầu tiên được phát tán thông qua hệ điều hành của hãng "Quả táo", lây lan khắp hệ thống của công ty Texas A&M, thông qua các trò chơi ăn cắp bản quyền trên đĩa mềm. Những người đầu tiên phát hiện còn gọi nó là Elk Cloner.
1983. Fred Cohen, một sinh viên đại học Mỹ, đã đưa ra định nghĩa đầu tiên về virus: “Là một chương trình máy tính có thể tác động những chương trình máy tính khác bằng cách sửa đổi chúng bằng phương pháp đưa vào một bản sao của nó”. Fred Cohen luôn là cái tên được nhắc đến khi nói về lịch sử virus.
Lịch sử virut Máy tínhtrên thế giới1949. Lý thuyết đầu tiên về các chương trình tự sao chép ra đời. 1981. Apple II là những virus đầu tiên được phát tán thông qua hệ điều hành của hãng "Quả táo", lây lan khắp hệ thống của công ty Texas A&M, thông qua các trò chơi ăn cắp bản quyền trên đĩa mềm. Những người đầu tiên phát hiện còn gọi nó là Elk Cloner.1983. Fred Cohen, một sinh viên đại học Mỹ, đã đưa ra định nghĩa đầu tiên về virus: “Là một chương trình máy tính có thể tác động những chương trình máy tính khác bằng cách sửa đổi chúng bằng phương pháp đưa vào một bản sao của nó”. Fred Cohen luôn là cái tên được nhắc đến khi nói về lịch sử virus. 1986. Hai anh em lập trình viên người Pakistan là Basit và Amjad thay thế mã thực hiện (executable code) trong rãnh ghi khởi động của một đĩa mềm bằng mã riêng của họ, được thiết kế với mục đích phát tán từ một đĩa mềm 360 K khi cho vào bất cứ ổ đĩa nào. Loại đĩa mềm mang virus này có mác “© Brain”. Đây chính là những virus MS-DOS xuất hiện sớm nhất.1987. Lehigh, một trong những virus file đầu tiên xâm nhập các tệp lệnh command.com (virus này sau đó tiến hoá thành virus Jerusalem). Một virus khác có tên IBM Christmas, với tốc độ phát tán cực nhanh (500.000 bản sao/tiếng), là cơn ác mộng đối với các máy tính lớn (mainframe) của Big Blue trong suốt năm đó. 1988. Một trong những virus phổ biến nhất, Jerusalem, xuất hiện. Được kích hoạt vào các thứ Sáu ngày 13, virus này tác động file có đuôi .exe và .com, xoá tất cả những ứng dụng chạy trong ngày hôm đó. Cùng năm này, virus MacMag and the Scores gây ra đợt bùng phát lớn đầu tiên trên các máy Macintosh. Đây là cuộc khủng hoảng Internet đầu tiên khiến một số lượng lớn máy tính bị tê liệt. Cũng từ đó, Trung tâm điều phối phản ứng nhanh (CERT) đã ra đời để đối phó với những sự cố tương tự.1989. Xuất hiện chương trình Trojan có tên AIDS. Virus này nổi tiếng vì có khả năng khống chế giữ liệu giống như con tin. Nó được gửi đi dưới dạng một chương trình thông tin về bệnh suy giảm hệ miễn dịch. Khi được kích hoạt, AIDS sẽ mã hoá ổ cứng của nạn nhân và yêu cầu người sử dụng phải nộp tiền nếu muốn được giải mã. 1990. Symantec tung ra công cụ Norton AntiVirus, một trong những chương trình diệt virus đầu tiên do một công ty lớn phát triển.Thị trường trao đổi virus đầu tiên (VX) được tung lên mạng từ Bulgaria. Tại đây, các tin tặc có thể buôn bán mã và giao lưu ý tưởng. Cùng năm này, cuốn Sách đen về virus máy tính của tác giả Mark Ludwig được xuất bản. 1991. Tequila, một trong những virus phát tán dưới nhiều hình dạng đầu tiên được phát hiện. Những sâu loại này khiến cho việc xác định và truy quét chúng trở nên khó khăn do sự thay hình đổi dạng sau mỗi lần lây nhiễm.1992. Trong vòng 2 năm, người ta ghi nhận tổng số 1.300 virus đang tồn tại, tăng 420% so với tháng 12/1990. Xuất hiện DAME (Dark Avenger Mutation Engine), một bộ công cụ cho phép chuyển những virus thông thường thành những chương trình có khả năng thay đổi hình dạng. Sau đó là VCL (Virus Creation Laboratory), công cụ sáng tác virus thực sự đã ra đời. Sự xuất hiện của virus Michelangelo làm dấy lên những lời cảnh báo về thiệt hại quy mô lớn trên toàn cầu, mặc dù cuối cùng những gì xảy ra không như người ta lo ngại.1994. Trò lừa qua e-mail đầu tiên xuất hiện trong cộng đồng tin học. Trò này cảnh báo người sử dụng về một loại virus có thể xoá toàn bộ ổ cứng ngay khi mở e-mail có dòng chủ đề “Good Times”. Mặc dù không gây thiệt hại gì mà chỉ có tính chất doạ dẫm, trò lừa này vẫn tiếp tục xuất hiện trong chu kỳ từ 6 đến 12 tháng/lần.1995. Word Concept xuất hiện, tấn công các văn bản Microsoft Word và trở thành một trong những virus ghê gớm nhất vào giữa thập kỷ này. 1996. Baza, Laroux (virus macro) và một số virus Staog xuất hiện lần đầu tiên, tấn công các file trong hệ điều hành Windows 95, chương trình bảng tính Excel và cả Linux.1998. Không được đánh giá là nguy hiểm và chưa phát tán rộng, StrangeBrew là virus đầu tiên lây nhiễm vào file Java. Virus này sửa đổi các file CLASS để đưa một bản sao của nó vào giữa mã file để có thể bắt đầu chạy một vùng virus. Virus Chernobyl, hay còn gọi là CIH, phát tán rất nhanh qua các file .exe. Ngay như cái tên nó đã thể hiện, virus này có sức tàn phá khủng khiếp, không chỉ tấn công file mà cả chip trong máy bị nhiễm. 1999. Virus Melissa (W97M/Melissa) chạy một macro trong văn bản đính kèm e-mail, gửi tiếp thư này tới 50 người khác sử dụng Outlook. Virus này cũng lây nhiễm vào các văn bản Word và tiếp đó gửi chúng đi như những nội dung đính kèm. Melissa phát tán nhanh hơn bất kỳ virus nào từng xuất hiện trước đó, đạt tổng số 1 triệu máy tính nạn nhân.Bubble Boy là sâu máy tính đầu tiên không dựa vào việc người nhận e-mail có mở file đính kèm hay không. Chỉ cần thư được mở ra, nó vẫn sẽ tự hoạt động.Tristate là virus macro đa chương trình đầu tiên xuất hiện, tấn công nhiều ứng dụng như Word, Excel và PowerPoint.2000. Love Bug, còn gọi là virus ILOVEYOU, phát tán qua OutLook (giống như Melissa) trong một file đính kèm VBS và xoá hết các file MP3, MP2, và .JPG. Nó còn ăn cắp và gửi tên người sử dụng và mật khẩu về cho tin tặc.W97M.Resume.A, một biến thể mới của Melissa, được tung ra, sử dụng một macro trong Word để lây lan vào Outlook.Virus Stage, giả dạng một e-mail với nội dung ngộ nghĩnh về những giai đoạn đời người, lan rộng trên Internet. Khác với những virus trước đó, nó ẩn trong một file đính kèm với một đuôi giả “.txt”, để dễ lừa người nhận mở file. Cho đến nay, virus này không còn tác động nữa.Các cuộc tấn công từ chối dịch vụ bằng virus của hacker đã đánh bật khỏi mạng nhiều website như Yahoo, eBay, Amazon, trong nhiều giờ đồng hồ.2001. Nimda (vẫn được gọi là Quái vật đa đầu) với sức mạnh kết hợp từ 5 loại virus với phương thức hoạt động khác nhau tấn công hàng trăm nghìn máy tính trên thế giới. Đây là một trong những virus phức tạp nhất tới nay mà người ta xác định được.Virus mang tên nữ hoàng quần vợt Nga Anna Kournikova, tự sao chép vào danh sách địa chỉ e-mail trong Microsoft Outlook và mặc dù không gây hại nhiều, vẫn khiến các nhà phân tích lo sợ đây là một sản phẩm được thiết kế từ công cụ hỗ trợ viết virus, nhờ đó những tin tặc ít kinh nghiệm lập trình nhất cũng có thể chế tác các chương trình phá hoại. 2002. Tháng 1, virus LFM-926 xuất hiện trong các file Shockwave Flash (.swf) với thông điệp mời tải phim (Loading.Flash.Movie). Liên tiếp phát hiện những virus sử dụng tên các nhân vật và nghệ sĩ nổi tiếng như Shakira, Britney Spears và Jennifer Lopez. Klez, một ví dụ tiêu biểu của xu hướng gia tăng những loại sâu e-mail, viết đè lên file, tạo ra các bản sao ẩn của bản gốc và vô hiệu hoá nhiều công cụ phòng chống thông thường. 2003. Tháng Giêng, sâu Slammer ra đời và đến nay vẫn được coi là loại virus có tốc độ phát tán nhanh nhất: 75.000 máy tính chỉ trong 10 phút, tức là trong phút đầu tiên, trung bình cứ 8,5 giây, con số này lại được nhân đôi. Virus Sobig ra đời và trở thành công cụ ưa thích của cộng đồng spam. Những hệ thống máy tính bị nhiễm virus này trở thành trạm tiếp vận phát tán thư không mời. Nhiều kỹ thuật spam được sử dụng trong Sobig giúp nó gửi đi lượng bản sao e-mail khổng lồ.Tuy nhiên, sự kiện đáng chú ý nhất trong năm nay là Blaster (còn có tên MBlast hay LoveSan), là một trong những loại virus có sức lây lan rất mạnh, nhắm vào máy tính sử dụng hệ điều hành Windows 2000 và XP. Bắt đầu xuất hiện ngày 11/8, chỉ trong chưa đầy 1 tuần, Blaster đã xâm nhập ít nhất 300.000 máy tính tại nhiều nước, trong đó có Việt Nam. Khi xâm nhập vào một máy tính bị lỗi Windows, Blaster tự động tải đoạn mã từ PC bị nhiễm trước đó để tự nhân bản và tiếp tục phát tán. Sau đó, nó tìm quét những máy tính khác có lỗ hổng tương tự và tấn công. Những máy tính đã nhiễm, mỗi khi kết nối Internet được vài phút liền bị shutdown tự động.
File đính kèm:
- lich su virut.ppt