Nhà văn và bốn trùm mafia
Người xưa cho rằng văn chương là gốc lớn của sự lập thân, là việc lớn của sự kinh tế (kinh bang tế thế). Song, cũng thấy rõ tính chất phiêu lưu hiểm nguy của văn chương, bởi thế người xưa cũng hết lời khuyên răn đe nẹt nó.
Kinh Thánh bắt đầu bằng câu: Khởi thủy là Lời. Câu ấy đi kèm với cái lắc đầu của Chúa. Chúa cũng sợ rằng những hành động tiếp theo Lời không khéo chẳng hay ho gì.
Vậy sau khởi thủy là gì?
Không phải tự dưng trong văn chương, người ta đề cao chữ tâm. Tôi sẽ nói về điều này sau khi trình bày một vài điểm có vẻ như ít siêu hình hơn.
Trong việc làm văn, yếu tố quan sát giữ vai trò tích cực hàng đầu. Những nhà văn nhạy cảm và có tài năng, sau khi quan sát xong sẽ mệt kinh khủng. Sự lãnh cảm dửng dưng của thói đời, tính chất vô nghĩa của những việc làm, sự đểu giả trong nhân cách và chi chít những hình ảnh thối tha trong xã hội đập vào giác quan họ, họ không mệt sao được?
Sau khi quan sát, nhà văn ngẫm nghĩ để xử lý những lời nói dối và những lời nói thật, xử lý những hành động bất nhẫn và những cử chỉ cao thượng, xử lý của cải vật chất có thật và tinh thần lãng mạn mang màu sắc huyền ảo giống như cách ta lựa chọn thực đơn. Rất ít khi người ta chọn được thực đơn hợp vị. Tôi không tin là nhà văn nào cũng biết phân biệt chính xác tuyệt đối các dữ kiện mà anh ta thu lượm được sau quan sát. Hơn lúc nào hết, đây là lúc nghề nghiệp đòi hỏi trái tim nhà văn lên tiếng, tức là đòi hỏi chữ tâm trong lòng.
... Lễ nhạc, pháp độ là văn của người. Lê Quý Đôn cũng lưu ý đừng nhầm lẫn đức với văn là hai. Như thế, văn hay tức là đức tốt, chẳng có gì mà bàn với bạc, đấy là xét về phương diện người viết. Tính chất hết sức cá nhân trong các tác phẩm văn học lừng danh cảm động bởi chính tấm lòng thực như đếm của người viết. Khi người viết không sợ ngượng, bày tỏ mình và thông cảm được với mọi người thì gì thì gì, chúng ta cũng phải kính nể anh ta. Tại sao anh ta nói được điều mọi người không nói được, hơn nữa không một lời nào không bình dị, không một ý nào là không ngân vang thì chắc chắn ở đấy không phải có cái gì siêu phàm, ở đấy chắc chắn phải có ánh sáng. Song, tôi vẫn cứ quay lại câu hỏi ban đầu: Vì sao người ta vẫn cứ phải cảnh tỉnh, đe nẹt văn chương?. Khi đề cập đến tính chất cá nhân của những tác phẩm văn chương lừng danh tức là đề cập đến tính chất người của nó. Nó ở đây là hai: tác giả và tác phẩm. ở tác phẩm, độ lớn của nhà văn tính bằng khả năng đẩy tính cách nhân vật và các vấn đề nêu ra đến hết, thậm chí đến cái chết. Không phải tự dưng Đôtxtôiepxki lý giải sự thành công của ông là đã đẩy hết điều mà các ngài chỉ đẩy nửa chừng. Các ngài đây, tôi cũng không hiểu Đốt muốn ám chỉ đồng nghiệp của ông (tức là các nhà văn Nga cùng thời), ám chỉ các nhà chính trị hay là nhân dân Nga? Song, tôi biết rõ Đốt cũng sẽ gọi con người công chức trong ông là ngài, ông chồng chung thủy trong ông là ngài, thằng người nô lệ trong ông là ngài, tất cả con người đạo đức xã hội trong ông là ngài. Việc đẩy hết, đẩy đến cùng nhân vật cũng như những vấn đề nêu ra trong tác phẩm đòi hỏi nhà văn phải trung thực với mình đến tận đốt xương sống. Việc trung thực đến mức dám thổi sáo bằng xương sống như trường hợp Maiacôpxki đã khiến ông trở nên vĩ đại, dầu rằng tài năng biểu hiện nghệ thuật của ông còn hạn chế. Ta biết cách dùng từ ngữ và cách văng tục trong thơ của Maiacôpxki chẳng hay hớm và sang trọng gì, nhưng không phải vì thế mà ông không phải là nhà thơ vĩ đại. Hành động tự gí súng vào trán bóp cò của ông hết sức nên thơ. Trước một tấm lòng như thế thì những người cầm bút khác chỉ còn cách lắc đầu, phải công nhận ông ta là thiên tài cho yên chuyện. Dầu khâm phục Maiacôpxki, thâm tâm nhiều người cầm bút cũng chẳng muốn noi gương ông. ở phương Đông, người ta coi danh toàn thân vẹn mới là anh hùng kỳ tài. Ngày xưa, Triệu Tử Long cũng là một anh hùng như thế: lập chiến công, không hề bị thương tích, sau đó chết vì già. Song, Triệu Tử Long hành nghề võ. Còn nghề văn phức tạp hơn nhiều, không phải khoẻ cơ bắp là đã chiến thắng. Khi đọc cổ văn, tôi sợ nhất câu: Hành hữu dư lực, tắc dĩ học văn tức là có làm dư sức thì mới học văn. Rất ít người có khả năng như thế, điều mà Măcxim Gorki diễn đạt có phần nào lỗ mãng và không lường hậu quả để lại. Ông nói: Nhà văn phải cao hơn điều mình viết. Nói như thế, nhà văn bị đẩy vào thế buộc phải chứng minh, phải chứng tỏ điều gì đấy (nhất là phải chứng minh, chứng tỏ với trí tưởng tượng của chính mình thì rất mệt, rất dễ quá sức). Phật Thích Ca cao siêu hơn nhiều khi Ngài truyền giảng: Ngươi đừng tin vào văn của ta, đừng tin vào cái tâm mà ta mong muốn, người hãy tin vào lòng mình. Đến như thế là tuyệt đối, là đến hư không. Phật trường tồn bởi rất nhiều những lời truyền giảng thế này. Trong việc thức tỉnh con người, văn chương buộc phải đụng chạm đến dục vọng. Lý do hết sức đơn giản: bạn đọc không phải ai cũng biết đạo, hiểu đạo, hành đạo. Chất thú, chất bản năng trong con người nhiều vô kể. Mối hiểm nguy của nhà văn là khi đối mặt với dục vọng, không khéo anh sẽ thất bại ngay từ cú ra quân đầu tiên. Phật Thích Ca là đàn ông, khi biết đạo của mình có các tín nữ tham gia, Ngài hiểu rằng nó sẽ mất đi 50% màu nhiệm, mất đi 50% thời gian tồn tại, kiểu như nếu đạo tồn tại 6.000 năm thì thực tế chỉ còn 3.000 năm thôi. Thật đúng là Phật. Ngài vừa độ lượng nhân từ lại vừa hào phóng. Có tín nữ tham gia mà đạo mất 50% màu nhiệm Ngài vẫn như không, mất 50% thời gian tồn tại mà Ngài vẫn chịu được. Dĩ nhiên, thể hiện dục vọng trong văn chương không phải chỉ có chuyện nam nữ. Nó còn là chuyện tiền bạc, là quyền lực, thậm chí là tôn giáo. Chính trị, ái tình, tôn giáo và tiền bạc là bốn lĩnh vực khi đề cập đến, dấn sâu vào, nhà văn không khéo rất dễ ăn đòn. Mức độ hiểm nguy của bốn khu vực trên là ngang bằng nhau và bốn trùm mafia ấy chơi với nhau thân thiết, luôn tìm cách cứu độ lẫn nhau. Cuộc đấu tranh của nhà văn là nhằm hướng con người thoát khỏi những mê man về quyền lực chính trị, ái tình, tiền bạc và cuồng vọng hóa thánh chính mình. ở đây, nhà văn là kẻ phải một mình chống bốn trùm mafia. Có thể nói, chọn nghề văn là chắc chắn chọn sự thất bại về mình, bởi vì trong mỗi con người ai cũng phải dính dấp đến bốn phạm trù này, không sao thoát được. Vừa chấp nhận nó, vừa thoát được nó, vẫn giữ được đạo, đấy là ước mơ của người cầm bút. Đời sống con người hết sức đa dạng. Người viết cũng thế, hết sức đa dạng. Chỉ rất ít nhà văn vượt qua được biển cả chông bút rồi cắm được ngọn cờ ghi tên mình vào một mô đất nhỏ nhoi nào đó. Đa số đến nơi thì đã kiệt sức, trên người cắm chi chít bút chì, bút bi, bút mực, bút kim, các vũ khí đủ loại sang trọng và bỉ ổi, thậm chí cả đạn. Vậy ai đến đích? Ai không đến đích? Số đông nhà văn, có lẽ chiếm đến 99,99% người viết vướng vào những hóc hiểm của đường đời, lúng túng trong các mê lộ của lòng người và trong các mê lộ của từ ngữ, không sao thoát ra được. Số này không biết rũ bỏ sự kiện để tìm đến bản chất. Đặc điểm nghệ thuật của những nhà văn này là sự hoa mỹ ngôn từ, sự rườm lời. Họ không bắt mạch được tính cách nhân vật và thường để cho nhân vật cư xử nói năng nhầm lẫn. Các nhân vật đó yêu đương nhăng nhít, không biết kiếm tiền và tiêu tiền sai, chẳng biết gì về chính trị và tất nhiên vô đạo. Bản thân nhà văn vấp phải chông gai trong đường đời sẽ mắc phải chông gai trong ngôn từ và làm cho độc giả cũng bị thiệt mạng nốt. Rất nhiều nhà văn tưởng như lý giải được điều gì đó nhưng thực ra lại làm rối thêm. Dĩ nhiên, trong tác phẩm của 99,99% số nhà văn đó không phải vứt đi hết cả, lấp lánh ở đâu đó vẫn có vài hạt vàng bé nhỏ. Người đọc tinh ý biết cách thâu lượm những hạt vàng đó sẽ có được một số vàng kiến thức đáng kể, có điều như vậy sẽ phải mất công sức và thì giờ. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm khi ngẫm nghĩ về sự đời đã nói về điều này rất gan ruột: Không có gì hiểm bằng đường đời Nếu không biết cắt bỏ thì toàn là chông gai cả Chữ cắt bỏ này trong nghề văn Măcxim Gorki gọi là vặt lông gà tức là biết cách rũ sạch các sự kiện không bản chất, rũ sạch các hư từ, hình dung từ, phiếm từ... Trong đời sống, ta có thể coi nó là việc cắt bỏ những ràng buộc của thể chế xã hội tiến tới tự do cá nhân tuyệt đối, giấu mình vào thế giới nội tâm chính mình. Khi giấu mình vào thế giới nội tâm chính mình, đối mặt với khoảng không tự do cá nhân tức là lúc con người đối mặt với quỷ. Viết đến đây, tôi nhớ đến chuyện kể về hai người phụ nữ. Một bà hỏi: Bạn thân mến, nếu chết bạn sẽ chọn thiên đường hay địa ngục?. Bà kia trả lời: Kể ra thiên đường thì khí hậu tốt thật, nhưng ở địa ngục thì nhiều chuyện vui hơn. Giai thoại này chứa ẩn một nụ cười triết học. Những nhà văn cao thủ mà tôi cho là chiếm tỷ lệ 0,009% số người cầm bút đã thể hiện tài tình đời sống tự do cá nhân của mình và nhân vật. Đọc họ rờn rợn, ghê ghê là phải. Nhưng thích. Hơn nữa thỉnh thoảng lại được cười tủm. Loại văn chương này ngày xưa gọi là văn trung hữu quỷ. Tú Xương thuộc loại này. Thậm chí cả Nguyễn Khuyến nữa. Khi Nguyễn Khuyến trách Tú Xương: Rằng hay thì thật là hay Đem Trời đối chó lão này không ưa thì thật ra cũng là chuyện chó chê mèo lắm lông. Khi rơi vào hoàn cảnh hỏng thi như Tú Xương thì Nguyễn Khuyến cũng phải viết như thế chứ còn biết viết thế nào. 0,009% số nhà văn hiếm hoi trên chắc chắn từng trải, tốt bụng, uyên thâm. ở họ ranh giới tốt xấu có khi nhòe vì họ chỉ quen làm điều tốt chứ có làm điều xấu bao giờ đâu mà biết điều xấu xa là gì. Song, những nhà văn này bao giờ cũng bị búa rìu dư luận phang vào không thương tiếc. Lỗi duy nhất của họ là họ quá thật với mình và với bạn đọc. Đây là thứ văn chương nổi loạn. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đã suy nghĩ về điều này rất gan ruột: Không gì nguy bằng lòng người. Nếu không biết giữ gìn mà buông phóng ra thì hóa thành quỷ quái cả. Trong lời sấm ấy của Trạng Trình chứa ẩn chân lý sau đây: đấy là tính mức độ, tính hữu hạn của thiên tài. Đến đây, chúng ta sẽ gặp khái niệm hài hòa của mỹ học hay tình trạng mà ta vẫn quen gọi là đắc đạo. Số nhà văn đắc đạo chiến tỷ lệ ít đến kinh người, nó chỉ chiếm 0,001% số người cầm bút mà thôi. Họ là những thiên tài và bao giờ họ cũng lấy điều chí thiện làm tiêu chuẩn tuyệt đối. Việt Nam may mắn đã có Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, còn sau Nguyễn Du thì hình như chưa thấy ai cả. Có thể có người sẽ phản đối tôi về việc chia tỷ lệ ba loại văn chương kia. ở đây tùy quan niệm về người cầm bút. Cách chia tỷ lệ của tôi là từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, từ Tư Mã Thiên trở xuống chứ không phải là từ dưới lên trên theo danh bạ lý lịch ở văn phòng Hội Nhà văn Việt Nam. Tóm lại, dù ở loại văn chương nào, cũng phải lấy chữ tâm, lấy điều chí thiện làm gốc. Cảnh tỉnh, đe nẹt người viết là cảnh tỉnh, đe nẹt loại nhà văn chiếm số đông kia. Đối với 0,001% nhà văn đắc đạo, cảnh tỉnh đe nẹt họ là thừa. Đến đây bật ra câu hỏi: ai sẽ là người có quyền cảnh tỉnh đe nẹt văn chương? Chẳng ai hết cả, đấy là bốn trùm mafia tồn tại hết mọi thời: chính trị, ái tình, tiền bạc và tôn giáo. Bốn thế lực này giăng bẫy khắp nơi, hành hạ con người. Văn chương giúp cho con người nhận thức về mình, nhận chân sự hiểm nguy trong đường đời. Cuộc chiến tranh nhận thức diễn ra liên tục, khi quyết liệt, khi hoà hoãn và thường người cầm cờ ở mọi thời bao giờ cũng là một gã nhà văn bất hạnh được thời thế và lịch sử chọn lựa. Gã đang đi trên đường kia, bút và giấy trong túi, tiền bạc không, chẳng có bổng lộc gì, trái tim tan nát... NGUYỄN HUY THIỆP
File đính kèm:
- NHA VAN VA BON TRUM MAFIA.doc