Văn học Nga (Thế kỷ 19, 20)

Văn học Nga thế kỷ XIX và Văn học Nga Xô Viết thế kỷ XX.

Hai thế kỷ văn học là hai thời kỳ phát triển liên tiếp, mỗi thời kỳ đều có vị trí lớn lao trong nền văn

học chung của nhân loại.

Văn học dân gian Nga đã có quá trình phát triển hàng chục thế kỷ, là cả một kho tàng văn học đậm

đà tính dân tộc mà chúng ta chưa khai thác được nhiều. Văn học phong kiến Nga với tư tưởng cổ điển chủ

nghĩa đã phản ánh tư tưởng chính thống của nền quân chủ Đại Nga - một quốc gia lớn ở Đông Âu.

Bước vào thế kỷ XIX, văn học lãng mạn Nga đột ngột xuất hiện, tiến nhanh tới đỉnh cao rồi lại

chuyển ngay sang trào lưu hiện thực chủ nghĩa với những tác giả, tác phẩm xuất sắc, khiến Tây Âu vốn tự

hào về những thành tựu rực rỡ của văn học lãng mạn và hiện thực cũng phải kinh ngạc và thán phục.

Văn học Nga có phong cách riêng biệt, khác lạ. Đặc biệt , tư tưởng dân chủ bộc lộ trong văn học

mạnh mẽ đến mức tạo ra nhu cầu đòi hỏi tư tưởng xã hội chủ nghĩa như một qui luật tất yếu. Vì lẽ đó,

Lênin đã coi tác phẩm của L.Tonxtôi là " tấm gương phản chiếu cách mạng Nga ". Đó là đóng góp quan

trọng của văn học Nga vào nền văn học thế giới. Những tác phẩm của Puskin, Lermontov, L.Tonxtôi,

Dotstoievski, Chekhov. đã trở thành tác phẩm cổ điển cùng với thành tựu lý luận, phê bình của Bielinski,

Tsernysevski. còn gây ảnh hưởng sâu sắc đến cả thế kỷ sau.

pdf61 trang | Chia sẻ: baobinh26 | Lượt xem: 3231 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Văn học Nga (Thế kỷ 19, 20), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút TẢI VỀ ở trên
, Ý. Cái giá phải trả cho cuộc chiến thắng của loài người thật nặng nề. Riêng 
Liên Xô có khoảng hai chục triệu người chết và hơn chừng ấy người bị thương và mất tích. Hàng nghìn thị 
xã, nong trang, nhà máy, trường học  hoàn toàn bị đổ nát vị bơm đạn. Ngay sau chiến tranh, nhân dân 
Liên xô lại bắt tay vào hàn gắn vết thương chiến tranh, giải quyết những hậu quả nặng nề về mặt xã hội và 
quyết tâm xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội trên mọi lĩnh vực. 
 Văn học Xô viết cũng đã tham gia tích cực vào công cuộc phục hồi vĩ đại của đất nước, theo chức 
năng và phương thức riêng của mình. 
 ªVề văn xuôi, nhiều nhà văn đã tiếp tục hoàn thành nhiều tác phẩm đã ấp ủ hoặc viết dở dang trong 
thời kỳ còn chiến tranh như: 
 Illia Erenburg với tiểu thuyết “Cơn bão táp” (1947) 
 B.Polevoi sáng tác “Một người chân chính” (1948) 
 Briukov sáng tác “ Hải âu” (1948) 
 Fedorov sáng tác “Tỉnh ủy bí mật” (1947) 
 Kazakevich sáng tác “Ngôi sao” (1947) 
 Kataev sáng tác “Danh dự của tuổi thơ’ (1940) 
 Đề tài chiến tranh còn được tiếp tục khai thác với cái nhìn lùi xa sau chiến tranh như: 
 “Số phận con người” của M.Solôkhov 
 “Những người sống và những người chết” 
 “Người ta sinh ra chưa phải là lính” 
 và “Mùa hạ cuối cùng” của K.Ximonov 
 “Những loạt đạn cuối cùng’ và “Tuyết bỏng” của I.Bondavev. 
 “Gắng sống tới bình minh” của Bưkov (1972) 
 ª Đề tài lao động sáng tạo, xây dựng chủ nghĩa xã hội:
 “Muối của đất” của Markov 
Phan Minh Nghóa_ Vaên 2005A Vaên hoïc Nga _TK 19, 20 60
 “Chuyện thường ngày ở huyện” của Oveskin (1952) 
 “Mùa gặt” của Nicolaieva (1950) 
 ªSau đại hội nhà văn lần II (1954), đề tài tiểu thuyết mở rộng ra: 
 Truyện “Một vinh quang vô ích” của Voronin 
 “Lời chào cuối cùng” 
 “Chàng trai và cô gái chăn cừu” của Xtaphiev 
 “Đừng bắn vào những con thiên nga trắng” của Alixiev 
 “Bến bờ” hoặc “Bờ xa” của Bondarev 
 “Một ngày dài hơn thế kỷ” của T.Aimatov (1963) 
 “Quy luật của muôn đời” của Nodar Dumbatze 
 ªTrường ca: “Tiếp cõi xa lại xa” (1960) của Tvardovski 
 “Giữa thế kỷ” của Vưgodski 
 Tập thơ: “Tuyết ngày thứ ba” và « Đại lộ những người nhiệt tình » 
 “Chùm thơ về Việt Nam và Mỹ” của Evtusenko 
 ªKịch nói “Chúc lên đường may mắn”, “Những người bất tử” của Rozov. 
 “Câu chuyện Iekut” của Arbuzov 
 “Cô gái đánh trống trận” của Xalưnski (**) 
 “Chuyển sang giờ mùa hè” - Xalưnski 
 Æ Đặc biệt, Pôgodin với vở kịch “Khúc thứ ba bi tráng” là vở cuối trong bộ ba viết về Lênin: 
“Người cầm súng” (1937), “Chuông đồng hồ điện Kremlin” (1940). 
 Nhà viết kịch trẻ Satơrov có cách tân táo bạo với các vở: “Thời tiết của ngày mai” (1940), “Những 
con ngựa xanh trên thảm cỏ đỏ” (1979). 
 Vampilov với các vở “Người con trưởng”, “Con vit mồi” (Đoàn kịch Trẻ Tp.HCM đã dựng) 
 A.Ghenman có các vở “Biên bản một cuộc họp”(1975), Chúng tôi kí tên dưới đây”(1979). 
 Phần lớn các vở kịch đó đã được dàn dựng trên sân khấu Việt Nam, có ảnh hưởng lớn đến sân khấu 
kịch nói nước ta và khá quen thuộc đối với công chúng Việt Nam. 
 Trong đời sống văn học Xô Viết từ sau chiến tranh thế giới thứ II đến nay có nhiều vấn đề phức tạp 
ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của nó. 
 Qua các đại hội nhà văn (4 năm 1 lần) nhiều vấn đề về sáng tác, lí luận tổ chức hoạt động của hội 
được bàn bạc, tổng kết. 
 Vào khoảng năm 1946, sự phê phán nghiêm khắc của cơ quan Trung ương Đảng Cộng sản Liên xô 
đối với một số hiện tượng văn học nghệ thuật “không lành mạnh” qua các nghị quyết cũng đã có ảnh 
hưởng khá mạnh đối với sinh hoạt sáng tác, biễu diễn văn nghệ. 
 Hơn một thập kỷ sau, trung ương Đảng do Khrousov lãnh đạo lại có cách nhìn đổi khác, đã ra nghị 
quyết minh oan cho một số tác giả và tác phẩm (1958). 
 Ảnh hưởng mạnh mẽ sâu sắc hơn cả đối với văn học Xô viết giai đoạn này là hàng loạt các cuộc hội 
thảo, tranh luận, các công trình nghiên cứu về chủ nghĩa hiện thực XHCN những quan niệm ban đầu về 
chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa không còn phù hợp với cuộc sống thực tiễn phong phú của cuộc sống 
và văn học nghệ thuật Xô viết. Chính do những quan niệm hẹp hòi này mà người ta gạt ra ngoài phạm vi 
hiện thực xã hội chủ nghĩa những tác phẩm ưu tú của Platonov, B.Paxternak, Bulgakov  
 Từ những năm 1960 về sau, các nhà lí luận văn học Liên Xô quan tâm đến việc nhận thức lại vấn đề 
“chủ nghĩa hiện thực” trước hết về mặt lý thuyết. Cho tới nay đã có hàng trăm cuốn sách, hàng ngàn luận 
án tiến sĩ và phó tiến sĩ xoay quanh vấn đề lớn này. Từ chỗ coi chủ nghĩa HT-XHCN như là nguyên tắc 
phản ánh thực tại bằng quan điểm duy vật biện chứng, nay đã đi tới quan điểm mới: Nó là một hệ thống 
gồm nhiều yếu tố, nhiều phương diện sắp xếp theo một cấu trúc hoàn chỉnh từ cơ sở Mỹ học, nguyên tắc 
tính Đảng, chủ nghĩa nhân văn cộng sản đến nhân vật trung tâm, phong cách nghệ thuật và thi pháp. Lý 
thuyết “Hệ thống mở” của viện sĩ Markov ra đời từ những năm 70 thực chất là sự mở rộng quan niệm về 
mặt thi pháp của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. 
 Có một sự kiện khác gây không ít ồn ào và những phản ứng khác nhau trong sinh hoạt văn học Xô 
viết thời bấy giờ, đó là việc trao giải thưởng Nobel văn học cho các nhà văn Nga. Có ba nhà văn Nga được 
trao giải Nobel: 
 B. Paxternak với tiểu thuyết “Bác sĩ Zivago” (1958). 
Phan Minh Nghóa_ Vaên 2005A Vaên hoïc Nga _TK 19, 20 61
 M.Solokhov với tiểu thuyết “Sông Đông êm đềm” (1965). 
 Zonzenitxưn với “Quần đảo Gulak” và một số tác phẩm khác (1970). 
 Trong số đó chỉ có tác phẩm của M. Solokhov là do nhà xuất bản trong nước ấn hành và do Liên Xô 
đề nghị, còn hai nhà văn kia: B.Paxternak, Zonzenitxưn (và nhà văn lưu vong sau cách mạng Tháng Mười 
Ivan Bunhin) đều do các nhà xuất bản phương Tây ấn hành và không do Liên Xô đề nghị. Riêng trường 
hợp tiểu thuyết “Bác sĩ Zivago”, lúc đầu do tác giả đưa đến tạp chí “Thế giới mới” để đăng ký xuất bản 
trong nước, nhưng khi biên tập viên đề nghị sửa chữa một số chương thì Paxternak không đồng ý, bản thảo 
được trả lại, ít lâu sau được xuất bản lần đầu ở Italia và sau đó ở một số nước khác. 
 Xung quanh hai giải thưởng Nobel 1958 (Bác sĩ Zivago) và 1970 (quần đảo Gulak), có nhiều ý kiến 
khác nhau. Thực chất đây là một hoạt động chính trị hơn là sinh hoạt văn học nghiêm túc. 
 Riêng trường hợp Solokhov, sau khi nhận giải Nobel, một số cơ quan văn học phương Tây như một 
số nhà xuất bản ở Paris tung ra cuốn sách “Những điều bí ẩn xung quanh Sông Đông êm đềm”. Một nhà sử 
học Liên Xô tên Metvedeev xuất bản ở Paris và Cambridge (Anh) cuốn sách “Sông Đông êm đềm chảy về 
đâu ? ” tỏ ý hoài nghi bản quyền của cuốn tiểu thuyết. Họ không tin rằng một nhà văn với tuổi đời mới 21-
22 lại có thể viết một tác phẩm già dặn và kiệt xuất đến thế. (Thực ra ở trong nước, ngay những năm 
Solokhov công bố tập I,II, người ta đã không tin một cây bút trẻ với trình độ chưa tốt nghiệp trung học lại 
có thể viết được như vậy). Vấn đề này đã gây tranh cãi trong nhiều năm. Gần đây nhà báo Nga L.Kolotsnưi 
đã tìm thấy bản thảo hai tập đầu của Sông Đông êm đềm trong một thư viện (công bố ngày 4.7.1991). Viện 
giám định tư pháp Liên Xô đã xác nhận đó là chữ viết của M.Solokhov. 
 Mới đây, PTS ngữ văn Nga V.Depavolov phát hiện ra một tác phẩm văn học cùng tên “Sông Đông 
êm đềm ” xuất bản năm 1941 ở Petersburg của A.Rodionov - một nhà văn có tên tuổi lúc bấy giờ. Nội 
dung tác phẩm này khác hẳn tác phẩm của Solokhov. Nguồn gốc của các nghi vấn và tranh cãi có thể phát 
sinh do sự trùng hợp ngẫu nhiên của tựa đề tác phẩm. Tuy thế, sự ầm ĩ có tính chất chính trị gây ra khác 
hẳn với tranh luận văn học đích thực. Khi đó Liên xô là một siêu cường quốc đối đầu với thế giới phương 
Tây về mọi mặt thì sự phản công bóp méo sự thật về văn học chỉ nhằm bôi nhọ chế độ Xô Viết. Điều đó 
không có gì lạ trong thời “ chiến tranh lạnh” với các chiến dịch tuyên truyền thù địch của phương Tây. 
 Ý NGHĨA VÀ VAI TRÒ LỊCH SỬ CỦA NỀN VĂN HỌC XÔ VIẾTT
 Ngày nay khi thể chế Liên xô tan rã, hàng ngũ các nhà văn Xô viết có một sự phân hóa sâu sắc về tổ 
chức, quan điểm, tư tưởng và hành động. Phần đông các nhà văn có tên tuổi và uy tín trước đây chưa lên 
tiếng. Rõ ràng là dứng trước bước ngoặt lịch sử bất ngờ như thế, mỗi người cầm bút không tránh khỏi phải 
chịu sự tổn thất nặng nề và sự khủng hoảng sâu sắc về tinh thần, do đó im lặng cũng là điều dễ hiểu. 
 Nền văn học Xô Viết đã đi trọn chặng đường lịch sử của mình nhưng khuynh hướng văn học hiện 
thực xã hội chủ nghĩa chưa thể kết thúc vai trò lịch sử của mình ít ra là trên quê hương của nó. Chỉ có điều 
khác là bây giờ nó không còn giữ địa vị độc tôn trong văn học như trước kia nữa. Căn cứ theo truyền thống 
văn học thế giới thì điều này xảy ra trong văn học nghệ thuật không phải là một điều dở, nghĩa là nó vẫn 
phù hợp với qui luật phát triển ý thức văn học nghệ thuật của loài người. 
 Trong ngót ba phần tư thế kỷ tồn tại và phát triển của mình, nền văn học Xô viết đã có một vai trò 
quan trọng, tích cực đối với sự phát triển đời sống tinh thần của nhân dân Liên Xô (cũ) nói riêng và cả 
nhân loại nói chung. Nó góp phần đấu tranh làm cho đời sống con người lành mạnh, tốt đẹp hơn và mang 
tính người hơn qua những thành tựu nghệ thuật ưu tú của mình. 
 Về mặt văn học, nó góp phần thay đổi diện mạo văn học thế giới đương đại và gây ảnh hưởng sâu 
rộng đến sự phát triển của nhiều nền văn học trên thế giới. 
 Những tác phẩm ưu tú của nó đã được thừa nhận và có vị trí trong kho tàng văn học của nhân loại. 
 Vì vậy, những thành tựu của nền văn học cách mạng này không thể bị lãng quên cùng dĩ vãng, nó 
vẫn mãi mãi thuộc về tương lai. 
HƯỚNG DẪN ÔN TẬP PHẦN VĂN HỌC XÔ VIẾT 
Sinh viên nghiên cứu các chủ đề sau:
1. Sự khởi đầu lịch sử và những chủ đề chính của nhà văn M.Gorki đối với nền văn học Nga hiện đại. 
2. Phân tích một số hình tượng nhân vật đặc sắc trong tiểu thuyết “Sông Đông êm đềm” để chứng minh tính chất sử thi của nó. 
3. Những bi kịch trong Sông Đông êm đềm 
4. Thiên hùng ca " Số phận con người " 
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH 

File đính kèm:

  • pdfVAN HOC NGA _ THE KY 19, 20.pdf