Xuân Diệu với di sản và di sản của Xuân Diệu

 Đây là di sản văn chương dân tộc - được thể hiện và đúc kết trong bộ sách Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, 2 tập, Nxb. Văn học in lần đầu; 1981-1982, hơn 750 trang(1). Bộ sách làm nên một bộ phận quan trọng trong di sản văn chương - học thuật của Xuân Diệu để lại cho chúng ta. Đặt khu vực tiểu luận về di sản này bên cạnh Thơ, Văn xuôi, Dịch thơ của Xuân Diệu không thấy “nhẹ” chút nào. Thậm chí còn là “nặng”, nếu tin theo lời một nhà thơ cùng thời: riêng một Xuân Diệu đã có thể sánh với cả một Viện hàn lâm! Đặt một so sánh như thế để ghi nhận sức lao động, sức viết cường tráng của Xuân Diệu hẳn không ai phản đối; nhưng chắc không khéo sẽ chạnh lòng không ít người trong một xã hội đã có phân công rành rọt; trong một đời sống văn chương - học thuật đã được hiện đại hóa qua hơn một thế kỷ. Còn về phần tôi, là người công tác ở một Viện nghiên cứu, là hậu sinh của Xuân Diệu, tôi không có gì là tự ái; nhưng vẫn thấy cần nói lên niềm tự hào, sung sướng khi vừa ra trường được phân công ngay về Viện Văn học, nơi có một dàn cán bộ sáng lập gồm những tên tuổi sáng danh trước 1945, như Đặng Thai Mai, Cao Xuân Huy, Hoàng Ngọc Phách, Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan, Trần Thanh Mại, Nam Trân; không kể những bậc đàn anh kế sau, và tôi chưa bao giờ nghĩ là phải gộp tất cả họ lại mới sánh được với Xuân Diệu!

doc10 trang | Chia sẻ: baobinh26 | Lượt xem: 612 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xuân Diệu với di sản và di sản của Xuân Diệu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút TẢI VỀ ở trên
n chương thì, đối với bất cứ dân tộc nào cũng vậy, sẽ là thiếu đi cái phần hồn, phần da thịt, để lại cho hậu thế; nói theo Xuân Diệu, là thiếu đi cái ở “trong hệ tâm hồn”, trong “trái tim” con người; còn đối với dân tộc ta, thì có gì để minh chứng cho một lịch sử bốn nghìn năm văn hiến!
Hơn 20 năm nay, nhiều người đã viết về Xuân Diệu trong những phát hiện của ông, ở tư cách một nghệ sĩ, về các đỉnh cao văn chương dân tộc; về thế giới tâm hồn Nguyễn Trãi; về bà Chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương; về bản cáo trạng cuối cùng và từ ngữ Truyện Kiều; về nhà thơ mù tỏa sáng Nguyễn Đình Chiểu; về nhà thơ làng cảnh Việt Nam Nguyễn Khuyến; về cảnh và người Nam Định và nhà thơ lớn (chứ không phải là nhà thơ hiện thực trào phúng lớn) Tú Xương... Tôi sẽ không có gì thêm để nói sau những gì Xuân Diệu đã viết bởi sự dồi dào, xum xuê của các ý tưởng, và bởi cách viết rất là riêng của ông. Một cách viết khiến đọc văn mà rõ mồn một về người. Một cách viết thật lôi cuốn trong những khám phá tinh vi của một nghệ sĩ lớn về ngôn từ. Nhưng với tôi, tôi không nghĩ văn Xuân Diệu là “viết hay khó ai thay được” như ý của một nhà thơ lớn cùng thời (với ông), hoặc “viết hay đến mức không ai có thể sánh được” như ý của một nhà thơ kiêm phê bình hiện kim; có nghĩa là không vì mê Xuân Diệu mà chê hoặc quên một số người viết khác cũng có bản sắc riêng và độc đáo như ông. Bởi văn chương cũng giống như một mâm cỗ, thậm chí nhiều loại cỗ, cần nhiều món cho thực khách chọn lựa.
Trở lại với những đỉnh cao văn chương đã được Xuân Diệu phát hiện đều nằm trong các giá trị cổ điển của văn chương dân tộc - cổ điển là cái đã thành chuẩn mực, cái làm nên sự bền vững trong xuyên suốt của lịch sử nhiều trăm năm, cái khơi nguồn và tạo nền cho sự phát triển về sau của thời hiện đại. Nhưng nói tính chuẩn mực, sự bền vững không phải là nói một cái gì nhất thành bất biến, sinh ra là thành khuôn và định hình. Mà là phát triển theo lịch sử. Từ câu thơ thời Hồng Đức: Trời muôn trượng thẳm làu làu sạch đến câu thơ Nguyễn Khuyến: Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao là có khoảng cách 400 năm. Có khi chỉ là một khoảng cách ngắn, như khoảng cách giữa Những xuân đào hãy ngậm cười. Vẻ hồng trơ đó, mặt người nào đâu? của Hoa tiên, với Trước sau nào thấy bóng người. Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông của Truyện Kiều. Nhưng đây lại là một khoảng cách khác, khoảng cách giữa cái trung bình và cái đỉnh cao. Các giá trị khi đã thành cổ điển thì khó có sự phân biệt thấp-cao; là “mỗi người mỗi vẻ mười phân vẹn mười”, như trong cách Xuân Diệu phân biệt Nguyễn Khuyến và Tú Xương: “Hai nhà thơ tương xứng với nhau như một câu đối có hai vế, vế trắc là Tú Xương, vế bằng là Nguyễn Khuyến”. Tất nhiên, để cho thật rốt ráo, cần đến cân tiểu ly mà đo, trong phân tích thì đôi lúc Xuân Diệu cũng cho một so sánh, chẳng hạn: “Tú Xương đã Nôm, Nguyễn Khuyến còn Nôm hơn”. Hoặc: “Nếu chỉ nói về tài dùng chữ, có lẽ, ở nhiều trường hợp, Nguyễn Du cũng phải nhường bước Xuân Hương” - (nhường bước chứ không phải thua). Hoặc: “Xuân Hương không như Đoàn Thị Điểm, nặng về tao nhã; không như Ngọc Hân công chúa, nặng về tha thiết, khóc than; không như Bà Huyện Thanh Quan, làm thơ như có con hầu đi theo sau; Xuân Hương là trong thơ có người, trong thơ có tiên và trong thơ có quỷ”(18)... Những so sánh như vậy không làm suy giảm các giá trị cổ điển, vốn là mẫu số chung cho tất cả, đã được thời gian và công chúng định vị.
Cổ điển, trong bao quát của Xuân Diệu không chỉ dừng lại ở mấy gương mặt kết thúc thời trung đại là Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Tú Xương. Mà xem ra còn là kéo dài cho đến Tản Đà trong ba thập niên đầu thế kỷ XX. Từ 1939, Xuân Diệu đã có bài ca ngợi Tản Đà ở nhiều tư cách, trong đó có một điểm nhấn quan trọng: “Tản Đà là người thi sĩ đầu tiên mở đầu cho thơ Việt Nam hiện đại. Tản Đà là người có can đảm làm thi sĩ, đã làm thi sĩ một cách đường hoàng, bạo dạn, dám giữ một bản ngã, dám giữ một cái Tôi”(19). Vậy là Tản Đà đã kịp đến đúng vị trí của người khai sinh văn học hiện đại; nhưng là một hiện đại còn đang trong giao thoa với cái cũ. Tản Đà, hai năm sau ngày qua đời, rồi sẽ được Hoài Thanh “cung chiêu anh hồn”, trong tư cách là người “đã dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc hòa nhạc tân kỳ đang sắp sửa” là phong trào Thơ mới; nhưng cũng cần nhớ là trước đó không lâu ông đã bị nhóm Ngày nay đưa lên mặt báo mà chế riễu về sự quá đát, lạc thời. Nghĩ về Tản Đà như là bậc tiền bối của Thơ mới, tôi từng cho rằng ông vẫn chưa rời được cái “phòng chờ” những năm 20 để lên tàu mà tiếp tục cuộc hành trình cho đến ga cuối ở thời điểm tháng Tám - 1945. Tản Đà qua đời trong một cái chết buồn ở cảnh túng nghèo, nhưng rồi ông lại được chính những người vừa chế riễu ông, vừa muốn “chôn” ông định vị trở lại giá trị của một người mở đường; thiếu họ và thiếu những người trước họ, cả cái đội quân hăm hở, số lớn mới ở tuổi ngoài 20, tạo nên gương mặt văn học 1930-1945, trong đó có Xuân Diệu, sẽ trở nên “những đứa con thất cước” - như chữ dùng của Hoài Thanh.
Chữ “giao thời” nhiều người đã dùng. Tôi xin bổ sung thêm, trong một phạm vi hẹp hơn, hình ảnh một cái “phòng chờ” khá đông đúc hành khách vào những năm 20 thế kỷ XX. Vượt qua được Nguyễn Khuyến, Tú Xương... nhưng chưa đuổi kịp được Thế Lữ, Xuân Diệu; gần như cùng đồng thời với Ngô Tất Tố (người kém ông 4 tuổi) và Khái Hưng (kém ông 7 tuổi) - hai người rồi sẽ trở thành kiện tướng cho hai trào lưu hiện thực và lãng mạn thời 1930-1945, Tản Đà vẫn dừng lại ở bờ bên này - những năm 20, mà chưa vượt được cái mốc 1930. Tản Đà - nói như Xuân Diệu, là “những hoa quả đầu mùa của chủ nghĩa lãng mạn”(20).
Bốn chục năm sau ngày qua đời, một lần nữa, Tản Đà sẽ được Xuân Diệu tôn vinh như là “một bản lĩnh”. Để hiểu cách Xuân Diệu chịu ơn, và chọn Tản Đà và Trần Tuấn Khải như là những người có công trực tiếp chuẩn bị cho gương mặt thời hiện đại.
Nhân cái nhìn này về Tản Đà của Xuân Diệu, tôi lại nhớ đến cái khát vọng “chôn” văn thơ tiền chiến của Trần Dần phát biểu cách đây hơn hai chục năm. Một khát vọng cách tân táo bạo, rất phù hợp với không khí và tâm trạng chờ một cuộc đổi mới vào giữa những năm 80 thế kỷ XX. Nhưng ngẫm cho kỹ thì đâu phải chờ đến Trần Dần, ta mới quyết “chôn” tiền chiến! Cái tiền chiến, với hai đại diện là Tự lực văn đoàn và Thơ mới ta đã sớm chôn nó ngay sau 1945, tất nhiên lý do chôn có khác nhau; và phải sau hơn 40 năm mới có bối cảnh để phục hồi; và sự sống lại của nó cần được tính vào thành tựu của công cuộc Đổi mới. Có nghĩa là khi di sản quá khứ được mở rộng các biên độ thì hiện tại mới có một cái nền hoặc một điểm tựa vững chãi hơn. Sáng tạo văn chương- học thuật, nếu đã gọi là sáng tạo, thì bản chất của nó là phải mới; trong tiến trình lịch sử, ở giai đoạn nào cũng phải có cái mới, ít hoặc nhiều, ở người này người khác, để vào những bước ngoặt thì cần một dồn tụ lớn cho một cuộc chuyển tàu hoặc đổi đường ray. Nhưng có khác với sự phát triển của khoa học, công nghệ, ở lĩnh vực văn chương- nghệ thuật tôi nghĩ chẳng nên có từ “chôn”, và chẳng nên chôn ai cả trong tất cả những ai có công làm nên lộ trình của lịch sử. Sau những 300 năm vẫn không ai đem so Nguyễn Du với Nguyễn Trãi để tìm kiếm hơn thua. L. Tonxtôi là thật lớn và Sêchxpia cũng chẳng kém lớn, dẫu sinh thời L. Tonxtôi không chuộng Sêchxpia... Còn tất cả những gì là nhạt, là dở, là giả, không tạo nên một giá trị gì cả, thì tự nó sẽ rơi vào quên lãng, và chẳng cần ai chôn. Đổi mới là thay đổi nhưng cũng còn là tiếp nối trong một tình thế mới - nhớ đừng quên vế này, để cho di sản gắn nối trực tiếp và làm giàu cho hiện tại. Nguyên tắc cộng sinh vẫn là ưu việt hơn nguyên tắc bài trừ. Thêm vẫn hơn là bớt, nhất là khi di sản của ta vẫn chưa có gì nhiều. Học hoặc không học, hoặc học gì - đó là tùy ở các trường phái, xu hướng; ở mỗi cá nhân, cá thể, không ai ép buộc được ai. Học cách Xuân Diệu tiếp cận và tiếp nhận người xưa tôi nghĩ di sản cha ông để lại đã và còn trở thành cái vốn lớn, làm nên điểm tựa và hành trang cho mọi cuộc đi, theo nhiều hướng, để đến với những cái đích xa. Với Xuân Diệu ta luôn luôn có một quá khứ để mà yêu mến, tự hào. Xuất hiện ở tư thế một nhà Thơ mới, và là người mới nhất; đến với nhiều nền thơ thế giới trong một sự nghiệp dịch không mỏng; ba mươi năm mải miết trong nguồn thơ dân tộc... đó là hành trình, là cốt cách, và cũng là bản lĩnh của Xuân Diệu. Vào những ngày cuối đời, khi đã là một chân dung lớn trong nền thơ hiện đại, ông tâm sự: “Chữ dùng, âm điệu. Phải học cổ điển chỗ đó. Mươi năm gần đây tôi học cổ điển nhiều và tôi thó của các cụ. Mình giàu mình thó thì hóa sang. Anh nghèo mà thó nó bảo là ăn cắp. Tôi ăn cắp thường phi tang”(21). “Phi tang” - có nghĩa là Xuân Diệu đã gắn hòa được vào văn mạch dân tộc, mà không “cộm” lên. Còn với người cùng thời, nhất là các bạn trẻ, ông gay gắt: “Chao ôi! Chúng ta làm việc còn ít quá, chúng ta yêu thơ văn của dân tộc còn thiếu sót quá; thơ của chúng ta mấy chục năm nay đã hay rồi, tuy nhiên theo tôi nghĩ, nếu chúng ta tiếp nhận đầy đủ sâu sắc hơn nữa cái vốn truyền thống của cha ông, thì thơ hiện kim của ta còn có thể hay hơn nữa, sâu hơn nữa...”(22).
Đây là ý trong bài viết cuối cùng của ông, hơn ba tuần trước khi  qua đời, cho một Hội nghị những người viết văn trẻ, có tên là Sự uyên bác với việc làm thơ. Một lần nữa, với bài này, vẫn là sự khao khát trở về với cổ điển của Xuân Diệu, để kết hợp cho được “cái thật sâu của dân tộc với cái rất rộng của nhân loại”.
Xuân Diệu với di sản là thế. Cần một sự uyên bác có sẵn trong di sản, đến từ di sản, và để hiểu được di sản. Nhưng cao hơn sự uyên bác là cái tình của ông, là con mắt và tấm lòng ông. Còn bản thân Xuân Diệu, trong khả năng tận dụng đến triệt để thời gian sống hơn bất cứ ai khác, với những gì ông đã có, trên rất nhiều tư cách: là nhà thơ, người viết văn xuôi, người dịch thơ, và người nghiên cứu- phê bình thơ, lĩnh vực nào cũng dồn hết bút lực và tâm huyết, Xuân Diệu hiển nhiên xứng đáng là người tiếp tục nối dài và làm giàu cho di sản, để trở thành di sản1
                                                                             Thái Hà 9 - 18/11/07

File đính kèm:

  • docXuan Dieu voi di san va di san cua Xuan Dieu.doc
Bài giảng liên quan