Bài thuyết trình Sinh học Lớp 10 - Bài 31: Virut gây bệnh. Ứng dụng của virut trong thực tiễn

Định nghĩa:

Bệnh dại là bệnh do virus dại (rabies virus) gây nên. Đây là một bệnh truyền nhiễm virus cấp tính của hệ thần kinh trung ương dẫn đến tử vong chắc chắn.

Bệnh dại là một trong những bệnh truyền nhiễm được ghi nhận từ thời cổ xưa, mô tả từ cách đây hơn 3000 năm và là một bệnh truyền nhiễm đáng sợ.

Bệnh dại có thể gặp ở tất cả động vật có vú. Bệnh lây truyền chủ yếu do các chất tiết bị nhiễm virus, thường do vết cắn, vết liếm của động vật mắc bệnh dại.

Nguyên nhân:

Bệnh truyền nhiễm cấp tính chung cho người và nhiều loài động vật.

Bệnh do 1 virut hướng thần kinh gây nên, nguồn bệnh là ở chó sói, chó nuôi, cáo.

Virut xâm nhập vào cơ thể trực tiếp qua vết xước, vết cắn dính nước bọt cuả động vật bị bệnh. Một số trường hợp virut lây qua niêm mạc mắt.

Virut sau khi xâm nhập theo dây thần kinh về hệ thần kinh và trung ương thần kinh.

 

ppt52 trang | Chia sẻ: tranluankk2 | Ngày: 24/03/2022 | Lượt xem: 305 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài thuyết trình Sinh học Lớp 10 - Bài 31: Virut gây bệnh. Ứng dụng của virut trong thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút TẢI VỀ ở trên
còn nghi vấn. 
2. Lịch sử nghiên cứu : 
Bệnh đậu mùa được biết đến từ nhiều năm trước công nguyên, các nước T rung P hi được coi là nơi phát hiện bệnh lần đầu tiên. Bệnh được mô tả trong y văn một cách rõ ràng vào thế kỷ thứ VII. Nhưng cho đến khoảng thế kỷ VIII – XVII mới có những nghiên cứu về căn nguyên gây bệnh, dịch tễ và miễn dịch của bệnh. Năm 1906 Paschen phát hiện được vi rút gây bệnh đậu mùa. Guarnieri năm 1891 cũng đã cho rằng căn nguyên gây bệnh là các “hạt” trong nguyên sinh chất của tế bào biểu mô. 
V ắ c xin phòng bệnh đậu mùa được Jenner điều chế và sử dụng vào năm 1798 
3. Mầm mống của bệnh đậu mùa : 
Mầm bệnh : 
Vi rút đậu mùa (Variola Virus) thuộc họ Poxviridac có kích thước tới 300 nm , ở ngoài môi trường thời tiết khô hanh vi rút sống đ ược rất lâu ở nhiệt độ từ 4-20 o C có thể sống được từ 3 đến 17 tháng. Trong môi trường thời tiết khô, thiếu ánh sáng mặt trời, thiếu ôxy không bị diệt trong nhiều năm, ở vảy đậu sống được một năm. 
Vi rút đề kháng tốt với dung dịch cồn Ether Phenol Glycerin và nước đá. Nhiệt độ trên và 55 o C các dung dịch Xanh Methylen, thuốc tím, tia cực tím bất hoạt vi rút đậu mùa nhanh chóng. 
Nguồn bệnh : 
Người là nguồn bệnh duy nhất, bệnh nhân là nguồn lây từ cuối thời kỳ nung bệnh cho đến khi mụn đậu tróc hết vảy. Thời gian lây bệnh mạnh nhất là lúc mụn đậu hoá mủ và bong vảy không có người lành mang vi rút đậu mùa 
4. Con đường lây nhiễm : 
Lây chủ yếu qua đường hô hấp vi rút có trong nước bọt dịch mũi họng tung ra môi trường xung quanh khi bệnh nhân ho hắt hơi người lành hít phải khi tiếp xúc. Đây là đường lây trực tiếp 
Lây gián tiếp qua các đồ vật không khí nhiễm bẩn mủ, vảy đậu, dịch tiết người lành hít phải cũng có khi do da bị xây xước mà người lành bị nhiễm bệnh 
Mọi người , mọi chủng tộc , mọi lứa tuổi đều có thể mắc bệnh. Trẻ em dễ mắc bệnh nhất trẻ dưới 1 tuổi ít bị bệnh do có miễn dịch từ mẹ truyền cho, từ tháng thứ 2 thì miễn dịch giảm. 
Sau khi mắc bệnh có miễn dịch bền vững. Giữa đậu mùa và ngừa đậu (đậu mùa ở bò) có miễn dịch chéo. 
Dịch bệnh đậu mùa thường xảy ra vào mùa đông, khí hậu khô lạnh. 
Theo tổ chức y tế thế giới (WHO) : Trường hợp đậu mùa cuối cùng đã được ghi nhận vào năm 1977 ở Somali. Năm 1980, WHO đã tuyên bố bệnh đậu mùa đã được tiêu diệt trên toàn thế giới nhờ có chương trình tiêm chủng V ắ c xin. Tuy nhiên vì tính chất nguy hiểm của bệnh nên những hiểu về bệnh cần được quan tâm. 
5. Các thời kì phát bệnh : 
1. Thời kỳ nung bệnh 
Trung bình từ 12- 13 ngày, ngắn nhất 5 ngày , dài hơn là 15 ngày. 
2. Thời kỳ khởi phát 
Khởi phát đột ngột bằng sốt cao và rét run một cách tự nhiên, nhiệt độ 40- 41 o C , mạch nhanh. Sau vài giờ bệnh nhân rất mệt , đau đầu , không chịu được chóng mặt , ù tai , hoa mắt , đau bụng , đau dọc sống lưng , thắt lưng và cơ , khớp khiến bệnh nhân phải nằm liệt giường kèm theo bí đái. 
Bệnh nhân nôn liên tục đau thượng vị xung huyết da mặt và kết mạc mắt chảy nước mắt sợ ánh sáng, mắt long lanh vẻ sợ hãi. Bệnh nhân ho đau rát họng khó thở. 
Xuất hiện “tiền ban” giống ban sởi ở bẹn, nách dưới vú. Sau 1-2 ngày “ tiền ban” lặn hết .  “ tiền ban” có ở 24- 40% bệnh nhân . 
3. Thời kỳ toàn phát 
Thời kỳ này mụn đậu mọc vì vậy còn gọi là thời kỳ ban mọc . 
Mụn đậu mọc: 
Ngày thứ 4 của bệnh , nhiệt độ giảm bệnh nhân cảm thấy dễ chịu đồng thời xuất hiện các nốt dát (macula) màu hồng nhạt từ trên xuống. Đầu tiên ở trán, da đầu thái dương, mặt sau đó lan xuống cổ gáy tay ngực lưng, cuối cùng là chân. Sau 48 giờ ban mọc toàn thân càng xuống chân ban mọc càng thưa. 
Lúc đầu là nốt dát sau một ngày nốt dát nổi gờ nên màu đỏ sẫm gọi là nốt sẩn (Papule), các nốt sẩn to dần lên bằng hạt đậu ăn sâu vào trong da. Ngày thứ 6 của bệnh các nốt sẩn trở thành nốt phỏng (Vesicule) chứa trong nước xung quanh có rìa đỏ, nốt phỏng có nhiều ngăn nên khi chọc kim vào thì không xẹp. Các nốt phổng hơi cứng một số nốt có lõm ở trung tâm. 
Trên niêm mạc miệng, mắt mũi ruột cũng có ban xuất hiện như da các nốt phổng thủng vỡ để lại nốt loét có rìa đỏ, gây đau ho mất tiếng khạc đờm có mủ. 
Mụn đậu hoá mủ: 
Từ ngày thứ 7- 8 của bệnh: Các nốt phổng trở thành đục mủ, phù nề xung quanh, đỏ sẫm hơn, trung tâm mụn lõm xuống (lõm hậu phát). 
Tổ chức dưới da phù nề làm hai mặt sưng húp. Quá trình mụn đậu hoá mủ cũng có thứ tự từ trên xuống dưới. 
Toàn thân bệnh nhân lại nặng trở lại ban ngày sốt vừa, ban đêm sốt cao 40 o C, nhức đầu vật vã nói mê, mạch nhanh, huyết áp thấp, hơi thở có mùi hôi thối, khó thở, gan, lách to. 
Mụn đóng vảy: 
Từ ngày 12- 13 của bệnh mụn mủ khô đi và đóng vảy màu vàng nâu. Bệnh nhân thấy dễ chịu, nhiệt độ cơ thể giảm nhưng ngứa nhiều hơn. Quá trình mụn đậu đóng vảy cũng theo thứ tự trên xuống 
4. Thời kỳ lui bệnh 
Sau khi mọc được 20 ngày các vảy đậu bong dần để lại sẹo lõm màu nâu, sau vài tháng chuyển màu trắng bóng, sâu nhất ở mặt mũi tránsẹo tồn tại suốt đời 
Biến chứng : 
Thường gặp bội nhiễm vi khuẩn hoặc vi rus . Bội nhiễm do vi khuẩn hay gặp là phế quản phế viêm, áp xe ổ bụng, thanh quản, bệnh nhân sốt cao ho nhiễm đau tức ngực, khó thở dễ tử vong. Có thể gặp viêm tai giữa, viêm tai xương chũm nhiễm khuẩn huyết. 
Bội nhiễm do virut: Viêm não , viêm màng não, bệnh nhân có thể liệt tứ chi, liệt nửa người. 
6. Sự truyền bệnh : 
Bệnh lan truyền qua việc hít phải các virus variola trong không khí, thường từ các dịch từ vùng họng, mũi, niêm mạc họng của người nhiễm bệnh. Bệnh được truyền từ người sang người chủ yếu qua việc tiếp xúc mặt đối mặt kéo dài với người nhiễm bệnh, thường trong khoảng cách 1,8m, nhưng cũng có thể bị truyền bệnh qua việc tiếp xúc trực tiếp với các dịch cơ thể bị nhiễm virus hoặc các đồ vật bị nhiễm bẩn như giường hay quần áo. 
Đậu mùa hiếm khi gây lây nhiễm qua không khí trong không gian kín như tòa nhà, xe buýt, xe lửa. Virus có thể lây truyền qua đường nhau thai, nhưng bệnh đậu mùa bẩm sinh có tỷ lệ tương đối thấp. Đậu mùa không được ghi nhận là có thể lây truyền trong thời kỳ tiền triệu và virus thường phát tán từ lúc xuất hiện các vết ban, hay đi kèm với các thương tổn ở miệng và họng. 
Virus có thể lây truyền qua trong giai đoạn phát bệnh, thường nhất là khoảng tuần đầu tiên xuất hiện vết ban, khi các thương tổn ở da còn nguyên vẹn. Bệnh bắt đầu ít lây nhiễm trong khoảng 7 đến 10 ngày từ lúc vảy xuất hiện, nhưng người bệnh vẫn có khả năng lây nhiễm cho đến khi miếng vảy cuối cùng rụng đi. 
7. Phòng chống : 
Công đoạn đầu tiên được sử dụng để ngăn chặn đậu mùa là tiêm. Tiêm có thể đã được thực hiện ở Ấn Độ vào khoảng năm 1000 TCN ,  và tiêm một mũi đậu mùa bột, hoặc rắc đậu mùa lên da nơi có vết xước. 
Tuy nhiên, ý tưởng rằng tiêm có nguồn gốc từ Ấn Độ đã là một thách thức vì được miêu tả trong các văn bản y học tiếng Phạn về quá trình tiêm. Việc tiêm chống bệnh đầu mùa ở Trung Quốc có thể được tìm thấy vào cuối thế kỷ 10, và quy trình được thực hiện rộng rãi vào thế kỷ 16 trong thời kỳ  nhà Minh . Nếu thành công, tiêm sẽ tạo ra khả năng miễn dịch với đậu mùa. 
Tuy nhiên, do người bị nhiễm bởi virus variola, kết quả làm nhiễm trùng nghiêm trọng, và người đó có thể truyền bệnh đậu mùa cho người khác. Tiêm chủng đậu mùa có tỷ lệ tử vong 0,5-2%, thấp hơn đáng kể so với tỷ lệ tử vong từ 20-30% của chính bệnh này. 
Các thành phần của một bộ vắc xin đậu mùa hiện đại 
Tra ̉ lời câu hỏi : 
 Cấu trúc Virus Đậu mùa 
Tương tự các loại virus khác . Cấu trúc của Virus đậu mùa : chưa có cấu tạo tb rõ rệt  chứa AND gồm 2 dải nucleotide ( double-stranded DNA; dsDNA ) 
Ngoài ra , hiển vi điện tử mô tả một số virus đậu mùa là những “ Quả tạ hình ”, cấu trúc bên trong là cốt lõi của virus trong đó chứa các AND của virus.  
Bệnh lan truyền qua việc hít phải các virus variola trong không khí , thường từ các dịch từ vùng họng , mũi , niêm mạc họng của người nhiễm bệnh . Bệnh được truyền từ người sang người chủ yếu qua việc tiếp xúc mặt đối mặt kéo dài với người nhiễm bệnh , thường trong khoảng cách 1,8m, nhưng cũng có thể bị truyền bệnh qua việc tiếp xúc trực tiếp với các dịch cơ thể bị nhiễm virus hoặc các đồ vật bị nhiễm bẩn như ra giường hay quần áo . Đậu mùa hiếm khi gây lây nhiễm qua không khí trong không gian kín như tòa nhà , xe buýt , xe lửa . Virus có thể lây truyền qua đường nhau thai , nhưng bệnh đậu mùa bẩm sinh có tỷ lệ tương đối thấp .  Đậu mùa không được ghi nhận là có thể lây truyền trong thời kỳ tiền triệu và virus thường phát tán từ lúc xuất hiện các vết ban, hay đi kèm với các thương tổn ở miệng và họng . Virus có thể lây truyền qua trong giai đoạn phát bệnh , thường nhất là khoảng tuần đầu tiên xuất hiện vết ban, khi các thương tổn ở da còn nguyên vẹn .  Bệnh bắt đầu ít lây nhiễm trong khoảng 7 đến 10 ngày từ lúc vảy xuất hiện , nhưng người bệnh vẫn có khả năng lây nhiễm cho đến khi miếng vảy cuối cùng rụng đi . 
Để phòng chủ động phòng chống bệnh dại , Cục Y tế dự phòng , Bộ Y tế khuyến cáo người dân cần thực hiện tốt các biện pháp sau :1.  Cách phòng bệnh tốt nhất là phải tiêm phòng cho 100% chó , mèo nuôi đầy đủ và nhắc lại hàng năm theo khuyến cáo của ngành thú y. 2.  Nuôi chó phải xích , nhốt , khi ra đường phải mang rọ mõm .3.  Diệt chó chạy rông , chó vô chủ .4.  Không nên đùa nghịch , chọc phá các con vật nuôi . 
  Khi bị chó , mèo cắn cần :- Rửa vết thương dưới vòi nước chảy ngay lập tức với xà phòng liên tục 15 phút . Nếu không có xà phòng có thể xối rửa vết thương bằng nước thông thường . Đây là phương pháp sơ cứu hiệu quả nhất để chống lại bệnh dại .- Vết thương cần được rửa sạch với cồn 70%, cồn iod hoặc povidone -iodine ( nếu có ).- Hạn chế làm dập vết thương và không băng kín vết thương .- Đến ngay Trung tâm y tế gấn nhất để được tư vấn và tiêm phòng dại kịp thời . Chỉ có tiêm phòng mới ngăn ngừa không bị bệnh dại .- Tuyệt đối không tự chữa hoặc nhờ thầy lang khám chữa .  
Chân thành cám ơn quý cô 
và các bạn đã theo dõi! 
Thank for Watching 
10C 
Nhóm chúng em gồm : 
Trần Bích Ngân 
Dư Thị Bích Ngọc 
Nguyễn Khải Hoàn 
Nông Đức Thắng 
Lục Tuấn Nam 
Hoàng Diệu Linh 
Nông Việt Anh 
Nguyễn Huy Hoàng 

File đính kèm:

  • pptbai_thuyet_trinh_sinh_hoc_lop_10_bai_31_virut_gay_benh_ung_d.ppt