Đề tài Phương Pháp Dạy Học Tích Cực Môn Toán Ở THPT

 I) Tổng quan về phương pháp dạy học:

 - Khái niệm chung về phương pháp: Phương pháp là con đường, là cách thức để đạt những mục đích nhất định.

 Trong đời sống, người ta thường nói: Phương pháp làm cái này, cái kia hoặc cách làm cái này, cái kia; phương pháp sản xuất cái này, cái kia hoặc cách sản xuất cái này, cái kia; Trong dạy học, người ta thường nói: Phương pháp đặt vấn đề hoặc cách đặt vấn đề; phương pháp giải quyết vấn đề hoặc cách giải quyết vấn đề; phương pháp giải bài toán hoặc cách giải bài toán;

 Đặc điểm chung của phương pháp:

 + Phương pháp có tính khái quát: Con đường, cách thức để đạt những mục đích ở đây được hiểu chính là một tập hợp các hoạt động, các thao tác cần thiết có tính chất chung nhất, khái quát nhất mà mọi người khác nhau cần phải hiểu và hoạt động như thế để đạt mục đích đề ra.

 + Phương pháp có chức năng phương tiện tư tưởng: Phương pháp là con đường, là cách thức để đạt những mục đích nhất định – Đó chính là phương tiện tư tưởng để đạt tới mục đích đã định.

 - Phương pháp dạy học (PPDH): Người ta dễ thống nhất với nhau về định nghĩa phương pháp nêu ở trên, từ đó đã đưa ra nhiều nhiều định nghĩa khác nhau về PPDH theo các quan điểm khác nhau, chẳng hạn như:

 PPDH là một hệ thống tác động liên tục của GV nhằm tổ chức các hoạt động nhận thức và thực hành của HS để HS lĩnh hội vững chắc các thành phần của nội dung giáo dục nhằm đạt được mục tiêu đã định.

 PPDH là những cách thức hoạt động và ứng xử của GV gây nên những hoạt động và giao lưu cần thiết của HS trong quá trình dạy học nhằm đạt được các mục đích dạy học.

 Theo quan điểm hoạt động thì PPDH bao gồm hai mặt hoạt động: Hoạt động dạy học của GV- hoạt động này giữ vai trò chỉ đạo, tổ chức điều khiển quá trình dạy học. Hoạt động học tập của HS- hoạt động này giữ vai trò chủ động và tích cực.

 

doc7 trang | Chia sẻ: hongmo88 | Lượt xem: 5741 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phương Pháp Dạy Học Tích Cực Môn Toán Ở THPT, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút TẢI VỀ ở trên
 trình nhận thức trong nghiên cứ khoa học, quá trình nhận thức trong học tập không nhằm phát hiện ra các tri thức mà loài người chưa biết mà nhằm lĩnh hội những tri thức mà loài người đã tích lũy được từ trước. Tuy nhiên trong học tập HS cũng cần phải “khám phá’’ những tri thức mới với bản thân mình. HS sẽ thông hiểu, ghi nhớ một các chắc chắn những tri thức đã lĩnh hội được hoạt động chủ động, nỗ lực của chính mình.
	Tính tích cực trong học tập thường được biểu hiện ở HS chủ thể của quá trình nhận thức như: HS hăng hái trả lời các câu hỏi của GV, bổ sung các câu trả lời của bạn, thường nêu thắc mắc hay đề nghị GV giải thích những vấn đề chưa đủ rõ; chủ động vận dụng các kiến thức, kỹ năng đã học để nhận thức các vấn đề mới; tập trung chú ý vào các vấn đề đang học, kiên trì thực hiện các bài tập, không nản trước những khó khăn.
	Tính tích cực học tập của HS thể hiện ở ba mức độ tư duy sau:
	+ Tái tạo: Tập trung chú ý gắng sức để nắm được vấn đề GV đang hướng dẫn.
	+ Độc lập: Tự lực tìm tòi cách giải quyết các vấn đề đã đặt ra không có sự hướng dẫn của GV. 
	+ Sáng tạo: Tự mình tìm ra cách giải quyết vấn đề mới, độc đáo, hữu hiệu
	- Đặc trưng của PPDH tích cực:
 + Dạy học phải kích thích nhu cầu và hứng thú học tập của HS
	Khi đứng trước một nhiệm vụ học tập cần giải quyết, mức độ tích cực các hoạt động của HS được nhà tâm lý học Xô Viết V.P Simonov mô tả dưới dạng công thức sau:
	T = N(KCT – KĐC), trong đó T là mức độ tích cực của HS; N là nhu cầu nhận thức; KCT là kiến thức, kỹ năng cần thiết của HS; KĐC là kiến thức, kỹ năng đã có của HS. Như vậy cầu N là một hàm phụ thộc vào hiêu số KCT – KĐC. Do đó tính tích cực của HS sẽ không xuất hiện khi không có nhu cầu nhận thức(N = 0) hoặc khi HS đã biết cách giải quyết nhiệm vụ đó (KCT – KĐC –> 0)
	Tính tích cực của HS sẽ không xuất hiện trong trường hợp có sự cách biệt khá lớn giữa KCT và KĐC (KCT – KĐC = ∞), nghĩa là khi nhiệm vụ quá khó đối với HS thì cũng không xuất hiện nhu cầu N- > ∞
	Như vậy, trong dạy học điều quan trọng là đảm bảo điều kiện tương quan giữa KCT và KĐC sao cho tối ưu- nhu cầu N đạt giá trị lớn nhất, tức là KCT nằm trong vùng phát triển gần nhất. Khi đó nhu cầu nhận thức của HS càng cao thì tính tích cực hoạt động nhận thức càng tăng. Điều đó khẳng định rằng tính tích cực hoạt động học tập của HS phụ thuộc vào mức độ hấp dẫn và lôi cuốn của nhiệm vụ học tập.
	+ Dạy học thông qua các hoạt động học tập của HS
	Phương pháp tích cưc dựa trên cơ sở tâm lý học cho rằng nhân cách của trẻ được hình thành và phát triển thông qua các hoạt động chủ động, thông qua các hành động có ý thức. Trí tuệ của trẻ phát triển nhờ sự “đối thoại’’ giưa chủ thể với đối tượng và môi trường. Mối quan hệ giữa học và làm được nhiều tác giả đề cập: Suy nghĩ tức là hành động’’ (J. Piaget). “ Cách tốt nhất để hiểu là làm’’(Kant). “ Học để hành; học và hành phải đi đôi. Học mà không hành thì vô ích; hành mà không học thì hành không trôi chảy’’ ( Hồ Chí Minh).
	Trong phương pháp tích cực, người học- chủ thể của hoạt động học-sau khi được cuốn hút vào nhiệm học tập do GV tổ và chỉ đạo, thông qua tự lực kám phá điều mình chưa biết, chứ không phải là thụ động tiếp thu những tri thức sắp đặt sẵn. Như thế người học được đặt vào các tình huống của thực tế, người học trực tiếp quan sát, làm thí nghiệm, thảo luận, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách suy nghĩ của mình, tù đó nắm được các kiến thức mới, kỹ năng mớivùa năm được phương pháp “ làm ra’’những kiến thức kỹ năng đó, không rập khuôn theo mẫu, được bộc lộ và phát sáng tạo.Theo cách dạy này GV không chỉ cung cấp tri thức mà còn hướng dẫn hành động. 
	+ Dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học
	Phương pháp tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập của HS không chỉ là biện pháp nâng cao hiệu quả việc dạy học mà còn là mục tiêu việc dạy hoc. Như Desterwerg viết: “ người thầy giáo tồi truyền đạt chân lí, người thầy giáo giỏi dạy cách tìm ra chân lí’’.
	Trong xã hội hiện đại đang biến đổi nhanh- với sự bùng nổ thông tin, khoa học, kỹ thuật, công nghệ phát triển như vũ bão- thì không thể nhồi nhét vào đầu trẻ những kiến thức ngày càng nhiều. Do vậy phải quan tâm đến phương pháp học sớm ngay từ Tiểu học và càng lên lớp trên càng phải chú trọng.
	Trong phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Phương pháp tự học là cầu nối giữa học tập và nghiên cứu khoa học. Một yếu tố quan trọng đảm bảo thành công trong học tập và nghiên cứu khoa học là khả năng phát hiện kịp thời và giải quyết hợp lí những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn. Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học, biết linh hoạt vận dụng những điều đã học vào những tình huống mới, biết tự lực phát hiện, đặt ra và giải quyết những vấn đề gặp phải trong thực tiễn thì sẽ tạo cho họ lòng ham hiểu biết, ham học. Vì vậy, người ta nhấn mạnh dạy cho người học phương pháp học trong quá trình dạy học, cố gắng tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang tự học chủ động.
	+ Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác
	Trong một lớp học trình độ, kiến thức, tư duy của HS không thể đồng đều một cách tuyệt đối thì khí áp dụng phương pháp dạy học tích cực buộc phải chấp nhận về cường độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài học được thiết kế thành một chuỗi công tác độc lập.
	Áp dụng phương pháp dạy học tích cực ở trình độ càng cao thì sự phân hóa càng lớn. Việc áp dụng công nghệ thông tin trong nhà trường sẽ đáp ứng yêu cầu cá thể hóa hoạt động học tập theo nhu cầu và khả năng của mỗi HS.
	Tuy nhiên, trong học tập, không phải mọi tri thức, kĩ năng, thái độ đều được hình thành bằng con đường độc lập cá nhân. Lớp học là môi trường giao tiếp thầy – trò, trò – trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhântreen con đường chiếm lĩnh nội dung học tập. Thông qua việc thảo luận, tranh luận trong tập thể, ý kiến của mỗi cá nhân được bộc lộ, khảng định hay bác bỏ, qua đó người học nâng mình lên một trình độ mới.
	Trong nhà trường, phương pháp học tập hợp tác được tổ chức ở cấp nhóm, tổ, lớp hoặc trường. Sử dụng một cách phổ biến trong dạy học là hoạt động hợp tác trong nhóm nhỏ. Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học tập, nhất là phải giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuất hiện thực sự nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung.Trong hoạt động nhóm nhỏ sẽ không có hiện tượng ỷ lại, tính cách năng lực của mỗi thành viên được bộc lộ, uốn ắn, phát triển tình bạn, ý thức tổ chức, tinh thần tương trợ. Mô hình hợp tác trong xã hội đưa vào đời sống học đường sẽ làm cho các thành viên quen dần với sự phân công hợp tác trong lao động xã hội.
	Trong nền kinh tế thị trường xuất hiện nhu cầu hợp tác xuyên quốc gia, năng lực hợp tác phải trở thành mục tiêu giáo dục mà nhà trường phải chuẩn bị cho HS.
	+ Kết hợp sự đánh giá của thầy với sự đánh giá của trò:
	Trong dạy học, việc đánh giá HS là nhằm mục đích đánh giá thực trạng và điều chỉnh hoạt động của đồng thời của cả trò và cả thầy
	Trong phương pháp dạy học tích cực, GV phải hướng dẫn HS tự đánh giá để tự điều chỉnh cách học và GV cũng phải tạo điều kiện để các HS tham gia vào việc đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và điều chỉnh hoạt động kịp thời là năng lực rất cần thiết cho sự thành đạt trong cuộc sống mà nhà trường cần trang bị cho HS.
	Theo hướng của các phương pháp dạy học tích cực thì việc kiểm tra, đánh giá không chỉ dừng lại ở việc tái hiện các kiến thức, kĩ năng đã học mà phải khuyến khích được trí thông minh, sáng tạo, phát hiện được sự chuyển biến thái độ, xu hướng của hành vi của HS trước các vấn đề của đời sống cá nhân, gia đình và cộng đồng, rèn luyện khả năng phát hiện và giải quyết vấn đề nảy sinh trong các tình huống thực tế.
	- Các phương pháp dạy học tích cực môn toán ở THPT
 	+ Phương pháp gợi mở, vấn đáp:
	GV đưa ra một hệ thống câu hỏi mang tính chất gợi mở và yêu cầu HS trả lời lần lượt từng câu hỏi một, dần dần từng bước dẫn tới toán học cần thiết
	- Hệ thống câu hỏi trong gợi mở cần đảm bảo yêu cầu:
	 . Các câu hỏi phải phù hợp với các loại đối tượng HS.
	 . Mỗi câu hỏi phải có nội dung chính xác, phải gọn gàng, rõ ràng và không gây ra sự nhập nhằng khó hiểu cho HS 
	 . GV có thể đặt nhiều câu hỏi khác nhau cho cùng 1 nội dung.
	 . Các câu hỏi phải gợi ra vấn đề để HS phải suy nghĩ, hạn chế sử dụng các câu hỏi mà câu trả lời chỉ là có hoặc không
	 . Đối với một số các câu hỏi khó GV nên dự kiến câu trả lời và chuẩn bị câu hỏi phụ để có thể nhanh chóng trợ giúp HS khi cần thiết 
	- Sử dụng các câu hỏi gợi mở trong dạy học toán: GV nêu câu hỏi cho cả lớp suy nghĩ, sau đó gọi HS trả lời, rồi gọi HS khác nhận xét đánh giá, cuối cùng GV kết luận
 - Có thể khuyến khích HS tự đăt câu hỏi để các HS khác trả lời.
	+ Phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề:
	GV tạo ra các tình huống gợi vấn đề, và đặt HS vào trong các tình huống gợi vấn đề đó, để cho họ trực tiếp tham gia vào việc phát hiện vấn đề và tìm cách giải quyết vấn đề đó một cách tự giác tích cực
	Tình huống gợi vấn đề mà GV tạo ra phải đảm bảo ba yêu cầu sau đây:
	. Tồn tại một vấn đề: Tình huống phải bộc lộ mâu thuẫn giữ thực tiễn với trình độ nhận thức của HS. HS phải ý thức được một số khó khăn nhất định trong tư duy hoặc trong hành động mà vốn hiểu biết của mình chưa đủ để vượt qua. Nói cách khác, HS chưa giải đáp được và cũng chưa có quy tắc nào có tính chất thuật toán để giải đáp câu hỏi nảy sinh trong tình huống.
	. Gợi nhu cầu nhận thức: HS phải tự cảm thấy cần thiết và thấy có nhu cầu giải quyết vấn đề đó 
	. Gây niềm tin ở khả năng: HS phải thấy rõ tuy họ chưa có ngay lời giải, nhưng đã có một số kiến thức, kỹ năng liên quan đến vấn đề đặt ra và nếu ticts cực suy nghĩ thì có nhiều hy vọng giải quyết được vấn đề đó. 
	+ Phương pháp dạy học theo nhóm:
	GV tổ chức lớp học thành một số nhóm và giao việc cho các nhóm thông qua phiếu giao việc
 	Dạy học theo nhóm trong tiết học khi có những vấn đề từng cá nhân HS có thể giải quyết được, thường có thể được tiến hành trong trong quá trình hoạt động củng cố tri thức 

File đính kèm:

  • docPPDH tích cực môn Toán THCS.doc
Bài giảng liên quan