Lý Luận Về Nhà Nước Và Pháp Luật
Khoa học xã hội nghiên cứu những mặt khác nhau, các hiện tượng xã hội của xã hội loài người mà trong đó con người là trung tâm. Khoa học pháp lý - khoa học về nhà nước và pháp luật - là một bộ phận của khoa học xã hội. Khoa học lý luận về nhà nước và pháp luật là một ngành khoa học xã hội bởi nó nghiên cứu hai hiện tượng xã hội là nhà nước và pháp luật.
Nhà nước và pháp luật là những hiện tượng xã hội phức tạp và đa dạng được nhiều ngành khoa học xã hội nói chung và khoa học pháp lý nói riêng nghiên cứu ở những khía cạnh khác nhau. Chẳng hạn, triết học Mác - Lênin nghiên cứu nhà nước và pháp luật cùng với việc nghiên cứu các hiện tượng xã hội khác để rút ra những quy luật vận động và phát triển chung của xã hội; lịch sử nhà nước và pháp luật lại nghiên cứu nhà nước và pháp luật trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể để tìm ra những đặc thù trong sự phát triển của nhà nước và pháp luật trong từng hoàn cảnh cụ thể.
Các khoa học xã hội nghiên cứu những mặt khác nhau của xã hội loài người và toàn bộ hệ thống xã hội, đó là điều kiện sống của con người, những quan hệ xã hội, những kiểu và hình thức nhà nước và pháp luật, những hiện tượng thuộc thượng tầng kiến trúc tư tưởng như triết học, tôn giáo, nghệ thuật, văn hoá.
Khoa học pháp lý là một bộ phận của khoa học xã hội. Khoa học pháp lý nghiên cứu các phương diện xã hội, các quan hệ xã hội khi các phương diện xã hội và quan hệ đó được thể hiện dưới những hình thức pháp lý nhất định. Mục đích nghiên cứu của khoa học pháp lý không chỉ mang tính nhận thức đơn thuần về các hiện tượng, các quá trình về nhà nước và về pháp luật mà còn nhằm giải quyết những vấn đề của thực tiễn, của quá trình tổ chức và hoạt động của nhà nước, sử dụng công cụ pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích của con người, củng cố và duy trì trật tự xã hội.
Trong số các hướng nghiên cứu của khoa học pháp lý, có một hướng nghiên cứu có mức khái quát chung nhất, cao nhất, có tác động đến việc triển khai nghiên cứu trên các hướng tương đối cụ thể khác, đó là lý luận chung về nhà nước và pháp luật.
Lý luận về nhà nước và pháp luật là một ngành khoa học xã hội, cung cấp cho chúng ta những kiến thức chung về nhà nước và pháp luật, về vai trò xã hội và số phận lịch sử của nó. Lý luận về nhà nước và pháp luật được hình thành trên cơ sở các học thuyết khoa học và sự phát triển của xã hội. Các học thuyết khoa học tạo ra lập trường xuất phát và quan điểm tiếp cận cho lý luận về nhà nước và pháp luật. Trên cơ sở khoa học của các học thuyết về sự phát triển xã hội, lý luận về nhà nước và pháp luật làm sáng tỏ các vấn đề: nguyên nhân của sự xuất hiện, phát triển của nhà nước và pháp luật; vị trí, vai trò của nhà nước và pháp luật trong các hiện tượng xã hội; bản chất, hình thức, chức năng của nhà nước và pháp luật .
Lý luận về nhà nước và pháp luật với tư cách là một ngành khoa học độc lập trong hệ thống các ngành khoa học xã hội, vì thế nó có nhiệm vụ chính là tập trung nghiên cứu các hiện tượng nhà nước và pháp luật, bao gồm: những phạm trù, nguyên lý, kết luận chung về hiện tượng nhà nước và pháp luật nhằm nhận thức, giải thích nhà nước và pháp luật nói chung, tạo tiền đề và cơ sở để giải quyết các vấn đề của khoa học pháp lý cụ thể và hoạt động thực tiễn.
Như vậy, lý luận về nhà nước và pháp luật là một ngành khoa học xã hội bao gồm một hệ thống các kiến thức lý luận về nhà nước và pháp luật nói chung. Hệ thống các kiến thức đó bao gồm các học thuyết, phạm trù, nguyên tắc, khái niệm, quan điểm khoa học. được sắp xếp, phân bố theo một trình tự lô gích nhất định cấu thành khoa học lý luận chung về nhà nước và pháp luật.
à chỉ điều chỉnh các quan hệ xã hội quan trọng, cơ bản, điển hình liên quan trực tiếp đến lợi ích của nhà nước, xã hội và cá nhân con người. Đối tượng điều chỉnh của pháp luật còn có thể là những quan hệ xã hội phái sinh, nghĩa là chúng chỉ xuất hiện khi có quy phạm pháp luật, ví dụ: các quan hệ tố tụng, các quan hệ bảo hiểm... Phạm vi điều chỉnh của pháp luật có thể thay đổi theo từng giai đoạn cụ thể, phụ thuộc vào ý chí chủ quan của Nhà nước và các điều kiện chính trị, xã hội khác. Khả năng (mức độ) và phạm vi điều chỉnh các quan hệ xã hội của pháp luật chịu ảnh hưởng của các yếu tố cơ bản như : - Tính chất của các quan hệ xã hội; - Điều kiện về kinh tế, văn hoá, xã hội; - Ý thức pháp luật của nhân dân, của cán bộ, công chức nhà nước, của những nhà chính trị; - Sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật. Xác định phạm vi đối tượng điều chỉnh pháp luật là xác định ranh giới của việc sử dụng pháp luật vào việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, xác định ranh giới của sự “can thiệp công khai” của Nhà nước thông qua pháp luật vào sự phát triển của các quan hệ xã hội. b. Phương pháp điều chỉnh pháp luật Phương pháp điều chỉnh pháp luật là cách thức tác động pháp luật lên các quan hệ xã hội để đạt được mục đích đề ra. Nội dung của phương pháp điều chỉnh pháp luật được quy định bởi đặc điểm nội dung, tính chất của quan hệ xã hội và bởi vai trò của chủ thể điều chỉnh. Phương pháp điều chỉnh pháp luật có những đặc điểm là: Do Nhà nước (thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền) đặt ra; được ghi nhận trong quy phạm pháp luật; được Nhà nước bảo đảm thực hiện trên cơ sở có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước trong những trường hợp cần thiết. Các hình thức tác động lên các quan hệ xã hội có thể là: cấm đoán (không cho pháp tiến hành một số hoạt động nhất định), bắt buộc (buộc phải thực hiệnmột số hoạt động nhất định) hoặc cho phép (được phép hoạt động trong một phạm vi nhất định). Mỗi ngành luật có những phương pháp điều chỉnh riêng. Lý do của sự khác biệt đó là vì có sự khác nhau về: - Chủ thể tham gia quan hệ pháp luật. - Trật tự hình thành quan hệ pháp luật. - Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ pháp luật. - Các biện pháp bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó. Thông thường, các phương pháp điều chỉnh pháp luật được chia thành 2 loại đặc trưng là phương pháp mệnh lệnh- quyền uy và phương pháp tự định đoạt (thoả thuận). Phương pháp mệnh lệnh dùng để điều chỉnh các quan hệ xã hội mà trong đó một bên tham gia là nhà nước (cơ quan nhà nước có thẩm quyền). Phương pháp tự định đoạt thường dùng để điều chỉnh các quan hệ xã hội mà các bên tham gia quan hệ có địa vị bình đẳng với nhau. 3. Các giai đoạn của quá trình điều chỉnh pháp luật Sự điều chỉnh pháp luật đó là quá trình phản ánh sự kế tiếp nhau của sự điều chỉnh pháp luật. Ở đây chỉ nêu ra một số giai đoạn cơ bản có liên quan tới quá trình điều chỉnh pháp luật. Cần chú ý là việc phân chia này chỉ mang tính tương đối. Giai đoạn thứ nhất, quá trình điều chỉnh pháp luật bắt đầu đưa ra các quy phạm pháp luật. Các quy phạm bắt con người phải hành động phù hợp với lợi ích của sự phát triển xã hội. Đó là giai đoạn quy định, hay nói cách khác là giai đoạn sáng tạo, hình thành các quy phạm pháp luật. Giai đoạn thứ hai là giai đoạn tác động của các quy phạm pháp luật, trong giai đoạn áp dụng các quy phạm pháp luật, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật xuất hiện. Sự kiện pháp lý là yếu tố liên kết quy phạm pháp luật với hậu quả pháp lý xảy ra, là điều kiện cần thiết của giai đoạn này. Giai đoạn thứ ba là giai đoạn thực hiện quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý, nghĩa là các quyền và nghĩa vụ được thực hiện trong đời sống xã hội bởi cá chủ thể của quan hệ pháp luật. Áp dụng các quy phạm pháp luật là giai đoạn có thể xảy ra của sự điều chỉnh pháp luật. Thực chất của giai đoạn này là ở chỗ ra các quyết định mang tính chất quyền lực nhà nước, đảm bảo cho sự xuất hiện, thay đổi hay chấm dứt các quan hệ pháp luật. Nhờ giai đoạn áp dụng pháp luật mà Nhà nước đưa vào quá trình điều chỉnh pháp luật các quan hệ cụ thể, kiểm tra sự xuất hiện và thực hiện nó. Quá trình điều chỉnh pháp luật nói trên có thể diễn tả dưới dạng sơ đồ sau: Sự thiết chế quy phạm pháp luật Xuất hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý Thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý Áp dụng quy phạm pháp luật (sự kiện pháp lý là điều kiện cần có cho sự kết nối) II. CƠ CHẾ ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT Cơ chế điều chỉnh pháp luật là hệ thống thống nhất các phương tiện pháp luật, nhờ đó mà thực hiện được sự điều chỉnh có kết quả các quan hệ xã hội phù hợp với các mục đích của xã hội. Hệ thống các phương tiện pháp lý mà thông qua đó pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội bao gồm: Các quy phạm pháp luật, các văn bản cá biệt, các quan hệ pháp luật, các hành vi thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý. 1. Quy phạm pháp luật Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung, do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Nhiệm vụ của quy phạm pháp luật trong cơ chế điều chỉnh pháp luật là: - Xác định những tổ chức, cá nhân (gọi chung là chủ thể) chịu sự tác động của quy phạm pháp luật; - Xác định những hoàn cảnh, điều kiện mà trong đó các chủ thể cần phải chỉ đạo hành vi của mình theo quy định của nhà nước; - Nêu cách xử sự bằng cách chỉ ra các quyền, nghĩa vụ của chủ thể. 2. Văn bản áp dụng pháp luật Trong cơ chế điều chỉnh pháp luật, văn bản cá biệt có vai trò cụ thể hoá những quy tắc xử sự chung thành những quy tắc xử sự cụ thể cho những chủ thể xác định, ghi nhận quyền và nghĩa vụ pháp lý của họ. Các quyền và nghĩa vụ mà văn bản cá biệt đưa ra cho các chủ thể cụ thể không thể khác biệt về nội dung so với những quy định trong quy phạm pháp luật. Văn bản áp dụng pháp luật có thể tham gia vào cơ chế điều chỉnh pháp luật ở hai giai đoạn khác nhau. - Giai đoạn đầu để cá biệt hoá quy tắc xử sự chung thành quy tắc xử sự cá biệt khi quy phạm pháp luật quy định (đòi hỏi) là sự cá biệt hoá các quyền và nghĩa vụ đó phải do cơ quan nhà nước có thẩm quyền (những người có trách nhiệm, quyền hạn) tiến hành chứ không phải do những chủ thể tham gia quan hệ xã hội đó tiến hành. - Giai đoạn sau nó được dùng để cá biệt hoá các biện pháp tác động của nhà nước mà bộ phận chế tài của các quy phạm pháp luật đã quy định đối với các chủ thể pháp luật. Tuy nhiên, cần chú ý là trong một số trường hợp, sự cá biệt hoá các quyền và nghĩa vụ pháp lý không nhất thiết phải thực hiện bằng văn bản cá biệt, ví dụ: một số quy định trong Luật Hôn nhân và Gia đình. Các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể chỉ phát sinh, thay đổi, chấm dứt khi trong thực tế cuộc sống xuất hiện những điều kiện, hoàn cảnh, sự kiện cụ thể mà chúng đã được nêu ra trong các quy phạm pháp luật (đó là sự kiện pháp lý). Sự kiện pháp lý trong cơ chế điều chỉnh pháp luật là chiếc cầu nối giữa ý chí nhà nước (thể hiện trong quy phạm pháp luật ) và quan hệ xã hội. 3. Quan hệ pháp luật Dùng quy phạm pháp luật để điều chỉnh quan hệ xã hội đã làm cho quan hệ xã hội mang tính chất pháp lý, nghĩa là tạo ra cho các bên tham gia quan hệ xã hội đó có các quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý nhất định. Quan hệ pháp luật là một yếu tố cần thiếtcủa cơ chế điều chỉnh pháp luật, nhờ đó mà quy phạm pháp luật được thực hiện trong cuộc sống. Quan hệ pháp luật phát sinh với nội dung là quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý đối với các chủ thể cụ thể đã có khả năng thực hiện được. Tuy nhiên, để cho quyền và nghĩa vụ đó được thực hiện phải thông qua hành vi thực tế thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể pháp luật. Như vậy, bằng hành vi thực tế của mình các chủ thể pháp luật đã làm cho các quy định của pháp luật đi vào cuộc sống hiện thực. 4. Ý thức pháp luật Ý thức pháp luật tham gia vào tất cả các giai đoạn của quá trình điều chỉnh pháp luật. Nó là cơ sở tư tưởng chỉ đạo toàn bộ quá trình điều chỉnh pháp luật để việc điều chỉnh pháp luật được tiến hành đúng đắn, có cơ sở khoa học và đạt hiệu quả cao. 5. Pháp chế Pháp chế là một nguyên tắc cơ bản của quá trình điều chỉnh pháp luật. Nó đòi hỏi mọi hoạt động điều chỉnh pháp luật phải phù hợp với pháp luật. Chỉ quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa mới xoá bỏ được sự quản lý dựa trên ý chí chủ quan, tuỳ tiện, xoá bỏ được sự quản lý tuỳ thuộc vào các tình tiết ngẫu nhiên, vào tâm trạng và tính cách của nhà quản lý, làm cho các yếu tố của cơ chế điều chỉnh pháp luật có thể liên kết được trong một thể thống nhất, hoạt động nhịp nhàng và đồng bộ nhằm đạt được các mục đích đặt ra. Tóm lại, cơ chế điều chỉnh pháp luật là một hệ thống phức tạp các phương tiện, quy trình pháp lý ràng buộc lẫn nhau và ảnh hưởng qua lại với nhau. Chính vì thế, hiệu quả điều chỉnh pháp luật phụ thuộc vào tất cả mọi yếu tố của cơ chế điều chỉnh pháp luật chứ không riêng gì một yếu tố nào, nếu trong quá trình điều chỉnh pháp luật, một yếu tố nào đó không được đảm bảo sẽ dẫn đến nguy cơ mục đích điều chỉnh pháp luật sẽ không đạt được. CÂU HỎI ÔN TẬP Khái niệm điều chỉnh pháp luật? Yếu tố quy định mức độ và phạm vi điều chỉnh pháp luật? Quá trình điều chỉnh pháp luật? Khái niệm cơ chế điều chỉnh pháp luật? TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật, Khoa Luật, Đại học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội, 2005. Giáo trình lý luận nàh nước và pháp luật, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Tư pháp, Hà Nội - 2007. Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, NXB lý luận chính trị, Hà Nội - 2004. Vũ Hồng Anh, Tổ chức và hoạt động của nghị viện một số nước trên thế giới, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2001. Nguyễn Đăng Dung, Nhà nước và trách nhiệm của nhà nước, NXB Tư pháp, Hà Nội - 2006. Montesquieu, Tinh thần pháp luật, người dịch - Hoàng Thanh Đạm, NXB Giáo dục, Hà Nội -1996. Lê Minh Tâm, Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Công an nhân dân, Hà Nội - 2003. Hiến pháp Việt Nam năm 1946, 1959, 1980, 1992. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc các kỳ VI, VII, VIII, IX, X.
File đính kèm:
- ly_luan_ve_nha_nuoc_va_phap_luat_0832_8584.doc