Giáo trình Di truyền y học - Chương 12: Lập bản đồ gene
Việc lập bản đồ gene là một bước quan trọng trong việc tìm hiểu,
chẩn đoán và điều trị các bệnh di truyền. Hiện nay đã có trên 14.000 gene
trong số khoảng từ 30.000 đến 40.000 gene trong genome của người đã
được xác định vị trí trên nhiễm sắc thể và chỉ khoảng 1.500 bệnh do đột
biến gene đã xác định được đột biến trên các gene đặc hiệu. Như vậy rõ
ràng là vẫn còn rất nhiều việc phải làm để tìm hiểu các biến đổi xảy ra trên
gene làm gây ra những bệnh di truyền
ần mềm này còn ghi nhận các mẫu gene điển hình mã cho các loại protein đặc hiệu v.v... Cơ sở dữ liệu (database) về những đoạn DNA đã biết được vi tính hóa đóng mộ oạn nào đó của DNA để tìm một gene, ngươi ta sẽ tìm sự tương đồng giữa đoạn DNA của vùng này với các thông tin đã được lưu trữ về trình tự của DNA đã biết trong cơ sở dữ liệu của máy. Các thông tin này được lấy từ các gene đã biết chức năng hoặc từ các mRNA được tổng hợp tại các mô đặc hiệu. Giả sử chúng ta đã sử dụng việc phân tích liên kết để xác định một vùng chứa m hạn. Khi thực hiện kỹ thuật "đi dọc NST" chúng ta sẽ tìm kiếm sự tương đồng giữa 1 đoạn DNA lấy từ vùng này với một đoạn DNA có trong cơ sở dữ liệu như trình tự DNA của một gene mã cho một protein liên 18 quan đến sự phát triển của xương như một yếu tố phát triển nguyên bào sợi (fibroblast growth factor). Vì các gene mã hóa cho các sản phẩm protein tương tự thường có trình tự DNA tương tự. Sự tương đồng trong trình tự DNA giữa đoạn DNA lấy từ vùng này với một đoạn trong cơ sở dữ liệu gợi ý đoạn DNA này thực sự là một phần của gene gây dị dạng chi. Các cơ sở dữ liệu được dùng trong việc tìm kiếm các đoạn tương đồng thường là trình tự của các đoạn DNA nhỏ đã được gọi là expressed seque ả ở phần trước như lập bản đ nh tự của một s ác gene này và các sản phẩm nce tags (ESTs). ESTs thu được từ việc đọc trình tự của hàng trăm bp từ hai đầu của các dòng cDNA lấy từ thư viện cDNA. Vì các clone này chỉ gồm các DNA bổ sung chính xác với mRNA nên ESTs đại diện cho các phần biểu hiện (expressed) của gene. Thường chúng chỉ biểu hiện ở một số mô nhất định ở những thời điểm nhất định. Các EST có thể được lập bản đồ trên các NST đặc hiệu bằng cách sử dụng các kỹ thuật lập bản đồ vật lý đã được mô t ồ gene bằng kỹ thuật lai phóng xạ (radiation hybrid mapping) hoặc kỹ thuật FISH. Khi đó các nhà nghiên cứu có thể tìm kiếm trình tự tương đồng giữa các đoạn DNA tại một vùng đang được quan tâm với các ESTs đã biết. Nếu có sự tương đồng, vị trí của đoạn DNA trên NST sẽ ở cùng một vùng với ESTs đó và qua đó cũng có thể biết loại mô liên quan tới loại bệnh đang khảo sát (nơi gene đó hoạt động sao giải mã). Việc xác định các ESTs đã và đang được thực hiện một cách nhanh chóng và hiện đã có gần 2 triệu ESTs trong các dữ liệu trên máy. Kỹ thuật này đã được sử dụng để xác định một trong số các gene gây bệnh Alzheimer. Việc tìm kiếm sự tương đồng về trình tự không nhất thiết đòi hỏi phải sử dụng gene người. Người ta thấy có sự tương ứng giữa trì ố gene đã biết chức năng ở người với các gene của chuột nhắt hoặc thâm chí của nấm men hoặc vi khuẩn . Vì các gene mã hóa cho các sản phẩm protein quan trọng có xu hướng được bảo tồn trong quá trình tiến hóa nên sự xác định sự tương đồng giữa gene người với gene của một sinh vật khác có thể cung cấp những thông tin quan trọng về chức năng của gene đó ở người. Ví dụ nhiều gene liên quan đến việc đìều hòa chu kỳ sinh sản tế bào hoàn toàn tương tự giữa người và nấm men như giữa các đoạn của gene NF1 người với gene IRA2 của nấm men. Có khoảng một phần ba số gene gây bệnh ở người đã được xác định là có sự tương đồng với các gene ở nấm men. C của nó có thể được thí nghiệm một cách dễ dàng trên các sinh vật thí nghiệm. Qua những hiểu biết về chức năng của chúng trên các sinh vật thí nghiệm sẽ giúp hiểu biến tốt hơn về chức năng của chúng trên người. Một số các gene bệnh quan trọng ở người đã được xác đinh bởi vì có các gene 19 gây ra biểu hiện tương ứng đã được xác định trước đó ở các sinh vật khác. Ví dụ sự tương ứng giữa gene gây bệnh mắt nhỏ ở chuột và gên gây tật không có mống mắt (aniridia) ở người. 8. Sàng lọc các đột biến trên trình tự DNA Ngay khi một phần của DNA mang mã được đánh giá các đột biến bằng cách sử đã được phân lập, nó có thể dụng các kỹ thuật như SSCP (singl của bệnh nhân y là những mất đoạn quá nhỏ d cải tiến b e - strand conformation polymorphism), DGGE (denature gradient gel electrophoresis) và đọc trình tự DNA trực tiếp (direct DNA sequence) v.v.... Nếu một đoạn DNA đại diện cho gene bệnh thì nó chỉ thấy ở các cá thể mang bệnh chứ không thể thấy ở những người bình thường. Để giúp phân biệt các đột biến gây bệnh với các tính đa hình vốn có mặt một cách bình thường ở mọi cá thể, người ta so sánh DNA mắc bệnh do một đột biến mới gây ra với DNA của bố mẹ không mắc bệnh. Trong khi tính đa hình không có hại sẽ được thấy ở cả bố mẹ không mắc bệnh và cả con cái mắc bệnh, một đột biến mới gây bệnh sẽ chỉ thấy ở con mà không thấy ở bố mẹ. Đây là phương cách hữu ích trong việc xác định các đột biến gây ra các bệnh di truyền trội NST thuờng có tính thấm cao như bệnh u xơ thần kinh type 1 (NF1). Một loại đột biến khác có thể được đánh giá là các trường hợp mất đoạn dưới hiển vi (submicroscopic deletion), đâ o đó không thể quan sát bằng kính hiển vi được. Các mất đoạn này chỉ có thể được phát hiện bằng cách sử dụng kỹ thuật Southern Blot. Một mất đoạn như vậy sẽ làm hình thành một đoạn giới hạn (restriction fragment) nhỏ hơn bình thường làm nó di chuyển nhanh hơn trên gel. Đôi khi các mất đoạn lớn hơn có thể được phát hiện thông qua kỹ thuật điện di trên gel giống như trong kỹ thuật Southern Blot nhưng ằng việc cắt giới hạn (restriction digest) được thực hiện bằng các enzyme cắt ở vị trí giới hạn (recognition site) hiếm gặp do đó số lần DNA bị cắt sẽ ít đi, do vậy sẽ làm xuất hiện các đoạn giới hạn có chiều dài từ vài chục đến vài trăm kb. Những đoạn này do có kích thước quá lớn nên khó phân biệt với nhau khi thực hiện điện di trên gel theo cách thông thuờng nhưng bằng cách thay đổi chiều của xung điện ngang qua gel (xung sau được thực hiện ở góc 900 so với xung trước), các đoạn này sẽ di chuyển một cách khác nhau phụ thuộc vào kích thước của chúng và cho phép phân biệt chúng dễ dàng hơn. Vì vậy phương pháp điện di này được gọi là phương pháp điện di trường xung điện ( pulsed field gel electrophoresis). 20 9. Test phát hiện sự hoạt động sao mã của gene Để kiểm tra xem một gene có phải nó chịu trách nhiệm cho một bệnh nào đó không, người ta có thể kiểm tra ở các mô khác nhau để xác định xem gene đó hoạt động sao mã ở mô nào. Việc kiểm tra được thực hiện bằng cách tinh khiết mRNA chiết từ một loại mô nào đó, đặt nó trên miếng thấm (blot) và cho lai với một probe làm từ gene này để phát hiện. Kỹ thuật này được gọi là Northern blotting (ý muốn nói tương tự như kỹ thuật Southern blotting nhưng thay vì các đoạn DNA thì ở đây là mRNA) (hình 14). Nếu gene này chính là nguyên nhân gây bệnh thì phân tử mRNA của nó sẽ có mặt ở các mô là chịu ảnh hưởng của bệnh (nguyên lý của phương pháp này cũng giống như nguyên lý của việc phân tích bằng ESTs ). Ví dụ enzyme phenylalanine hydroxylase được tổng hơp ở gan do đó gene mã cho phenylalanine hydroxylase (đột biến sẽ gây bệnh phenyl- ketonuria, PKU) sẽ hoạt động sao mã ở tổ chức này. Hình 14: Một ví dụ về kỹ thuật Northern Blot. Trên ảnh cho thấy hiện tượng lai giữa một probe cDNA từ gene EVI2A (một gene cài vào trong một đoạn intron của gene NF1) với mRNA được lấy từ tuyến thượng thận, não, và các nguyên bào sợi. Kết quả cho thấy EVI2A được biểu hiện ở não ở mức độ cao hơn ở hai loại mô kia. Một test khác cho phép đánh giá trực tiếp sự biểu hiện của gene là đưa một đoạn DNA bình thường vào trong một tế bào bị khiếm khuyết lấy ra từ một cá thể mắc bệnh (hoặc từ các mô hình bệnh tương tự ở sinh vật 21 thí nghiệm) bằng kỹ thuật DNA tái kết hợp. Nếu đoạn DNA bình thường này khắc phục được khiếm khuyết của tế bào có nghĩa là nó có thể đại diện cho gene bệnh mà chúng ta quan tâm. Kỹ thuật này đã được dùng để chứng minh các đột biến trên gene CFTR có thể gây bệnh xơ nang (cystic fibrois). Tuy nhiên việc dòng hóa các gene đôi khi rất phức tạp và khó khăn do nhiều yếu tố khác nhau, chẳng hạn như việc phân lập các đoạn DNA gối đầu (overlapping) có thể trở nên rất khó khăn khi gặp phải các đoạn lặp dài trên DNA . Những khó khăn này làm cho việc dòng hóa các gene trở thành một công việc tiêu tốn nhiều thời gian và công sức. Mặc dầu gene gây bệnh Huntington được xác định là nằm trên nhánh ngắn của NST số 4 từ năm 1983 nhưng phải mất 10 năm làm việc vất vả của một nhóm gồm nhiều nhà nghiên cứu gene này mới được dòng hóa. Việc dòng hóa gene gây bệnh xơ nang (cystic fibrosis) cũng mất 4 năm. Việc dòng hóa các gene hiện đã được tiến hành với nhiều thuận lợi hơn nhờ các kỹ thuật dòng hóa tốt hơn và các vector mới được phát minh (như BACs, PACs và YACs có khả năng cài các đoạn DNA lớn hơn nhiều so với các cosmid). Việc sử dụng các mốc vật lý dùng để lập bản đồ gene (STSs) cũng làm tăng tốc độ và hiệu quả của việc dòng hóa gene. 10. Các gene ứng viên (candidate genes) Việc săn tìm gene được tiến hành hiệu quả hơn nhiều khi đã có sẵn một gene úng viên. Như tên gọi đây là một gene mà sản phẩm protein của nó làm nó trở thành một ứng viên cho một bệnh đang cần tìm nguyên nhân. Ví dụ như các gene mã cho các loại collagen khác nhau được xem là các ứng viên có thể là nguyên nhân của hội chứng Marfan vì collagen là một thành phần quan trọng của tổ chức liên kết. Tuy nhiên việc phân tích liên kết bằng cách sử dụng các marker của gene collagen trên các gia đình mắc hội chứng này đã không đem lại kết quả. Khi gene fibrilline - 1 được xác định trên NST 15, nó đã trở thành một gene ứng viên cho hội chứng này (fibrilline cũng là một thành phần của mô liên kết). Việc phân tích liên kết cũng đã định vị được gene gây hội chứng Marfan trên NST 15 vì vậy gene fibrilline - 1 trở thành một ứng viên có nhiều khả năng đã gây ra hội chứng đó. Việc phân tích các đột biến trên gene fibrilline - 1 đã chứng tỏ những đột biến này kết hợp một cách hằng định với hội chứng Marfan và cho phép khẳng định những đột biến này là nguyên nhân gây bệnh. 22
File đính kèm:
- Chuong 12.pdf